TB

LƯỢC KHẢO VĂN BẢN TÁC PHẨM
HÁN NÔM CỦA PHÙNG KHẮC KHOAN (1528 - 1613) (*)

BÙI DUY TÂN

Cùng với sự nghiệp kinh bang tế thế, sự nghiệp trước tác của Phùng Khắc Khoan cũng khá là dầy dặn. Di cảo của ông, ngoài phần tản mát khó tránh, khối lượng còn lại rất tập trung và đáng tin cậy về mặt văn bản. Từ đó, xung quanh các tập thơ văn Hán Nôm của ông, cần phải lược khảo về ngọn nguồn xuất xứ, quy mô diện mạo, đặc trưng tính chất của các loại văn bản tác phẩm.

Trước đây, một số công trình đã có phần viết về văn bản tác phẩm Phùng Khắc Khoan. Bài viết này tiếp nhận và phát huy những tìm tòi đáng chú ý ấy, khi cần thiết sẽ có phần đính chính, ngõ hầu đạt tới sự minh bạch về các văn bản tác phẩm của ông. Để làm công việc này, chúng tôi dựa vào kho sách ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, nơi tàng trữ hầu hết di cảo của Trạng Bùng, một số sách để ở nhà thờ Phùng Khắc Khoan, một số tư liệu từ Hàn Quốc đem về, hoặc sưu tập được từ các thư viện trung ương và các địa phương... Tất cả những tư liệu này đều ghi rõ xuất xứ khi cần thiết.

Phùng Khắc Khoan dùng cả chữ Hán và chữ Nôm để viết văn, làm thơ, soạn bi ký, diễn ca kinh truyện và viết vãn ca v.v. Song, cũng như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan trước tác chủ yếu là bằng chữ Hán, tác phẩm Nôm chưa nhiều, có điều ở cái phần chưa nhiều ấy, thể tài dân tộc đã có một vị thế mới. Cho nên đề cập tới văn bản tác phẩm của Phùng Khắc Khoan, trước hết hãy nói về sáng tác Nôm.

TÁC PHẨM NÔM

Lâm tuyền vãn: Tác phẩm Nôm duy nhất còn lại của Phùng Khắc Khoan. Toàn văn đã được in ấn lần đầu năm 1979 trong Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan ở Hà Sơn Bình(1). Văn bản của tác phẩm hiện còn trong tập tư liệu để ở nhà thờ tác giả, nhan đề: Phụ sao Đào nguyên hành - diệc viết Lâm tuyền vãn (Chép phụ thêm Đào nguyên hành cũng được gọi là Lâm tuyền vãn). Trong tập Phùng Công thi gia thư sưu tập được ở Thượng Cát, Từ Liêm, Hà Nội cũng có văn bản bài vãn mang tên Lâm tuyền vãn từ, so với văn bản để ở nhà thờ, chỉ có một số chữ dị biệt nho nhỏ(2). Nam triều công nghiệp diễn chí ghi tên tác phẩm này là Lâm tuyền giai thú(3), Nam thiên trân dị tập ở phần nguyên chú cũng gọi tác phẩm này là Lâm tuyền vãn từ(4), nhưng cả hai đều không có văn bản. Cho nên gọi tên tác phẩm là: Đào nguyên hành hoặc Lâm tuyền vãn như vẫn thường gọi là chuẩn xác. Mà Đào nguyên hành thì tên đầy đủ lại là: Ngư phủ nhập đào nguyên, một bài ca quốc âm mà Bùi Huy Bích có nói đến trong bài thơ tả cảnh Thành Nam(5) và Phan Huy Chú có nhắc tới trong chính văn và nguyên chú sách Lịch triều hiến chương loại chí (6). Có điều, khi nhắc đến bài ca Nôm đời vẫn truyền tụng này, Phan Huy Chú ghi lại được một câu văn: “Nhà cỏ ở Thành Nam đồ thư hoa trúc”. Câu văn này có dạng thức biền ngẫu, chứ không phải lục bát như thơ Lâm tuyền vãn.

Có thể nghĩ rằng Ngư phủ nhập đào nguyên, ngoài bộ phận dân dã hóa ý vị “Suối đào hoa” (Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm) bằng lục bát trong Lâm tuyền vãn, còn có một phần viết theo văn biền ngẫu mà ngày nay ta chưa tìm được chăng? Dầu sao thì cũng tạm thời công nhận: Đào nguyên hành, Lâm tuyền vãn, Lâm tuyền vãn từ, Lâm tuyền giai thú, Ngư phủ nhập đào nguyên hành, Ngư phủ nhập đào nguyên truyện... là những tên gọi khác nhau của cùng một bài vãn ca lục bát 185 câu. Và cũng nên lấy VãN, một thể tài đậm tính dân gian, để từ đó chấp nhận LÂM TUYềN VĂN là tên gọi chính thức của tác phẩm hơn là dùng các thể hành, truyền... vốn đậm sắc thái bác học.

Các tác phẩm khác: Cũng về văn thơ Nôm, Phùng Khắc Khoan còn có tập: Diễn nghĩa Kinh Dịch. Chúng ta biết được sách này là do Vũ Di Trai, tức Vũ Khâm Lân nhắc tới, khi đề tựa sách Chu Dịch Quốc âm giải nghĩa (còn gọi là Chu Dịch ca quyết) của Đặng Thái Phương (còn gọi là Đặng Thái Bàng) ở thế kỷ XVIII: “Nước ta trước kia, Phùng tiên sinh đã có sách diễn nghĩa về Kinh Dịch nổi tiếng ở đời, nay sách của họ Phùng mất mà sách của họ Đặng ra tiếp, đó chẳng phải là dịp may cho người đọc Dịch ru!”(7). Trong lời tựa sách Chu dịch ca quyết viết năm 1813, Phạm Quý Thích cũng nói: “Việc diễn nghĩa Kinh Dịch không phải bắt đầu từ ông họ Đặng (tức Đặng Thái Phương), trước kia Phùng Nghị Trai (tức Phùng Khắc Khoan) đã từng làm rồi, nhưng đến nay thất truyền, vì không gặp người ham thích đó thôi”(8). Qua những dòng viết của người xưa, ta biết được Phùng Khắc Khoan có sách Diễn nghĩa Kinh Dịch, sách đã mất nhưng đương thời nó được xem là bản diễn Nôm nổi tiếng, lại có nhiều người biết đến thì chắc được lưu hành rộng rãi. Đây có thể là một trong những bản diễn Nôm kinh truyện sớm nhất. Chưa rõ Phùng Khắc Khoan có sử dụng lục bát để diễn nghĩa kinh truyện giống như ông đã dùng nó trong Lâm tuyền vãn, hoặc Đặng Thái Phương dùng nó trong Chu Dịch ca quyết sau này hay không ? Chỉ biết, thể lục bát được ông dùng chuyên thể trong Lâm tuyền vãn thì lại được dùng trong một số tác phẩm Nôm tương truyền là của ông. Ví dụ:

Phùng Thượng thư sấm: phần sau của Thiên Nam ngữ lục ngoại kỷ (AB.192) có ghi chép sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi là Trình Quốc công sấm và sấm của Phùng Khắc Khoan gọi là Phùng Thượng thư sấm. Cũng như tập sấm ở đền thờ nay đã mất mát hầu hết, những câu sấm ở đây thường là Nôm, có xen nhiều chữ Hán, diễn trình chủ yếu bằng thể thơ lục bát. Ngoài ra một vài tập sách bàn về cách dùng binh, chiêm tinh, bói toán, lý số, có tính chất bí hiểm như phần Binh gia yếu chỉ trong Lục nhâm quốc ngữ (A.855) đề là “Phùng Trạng nguyên trước” (Trạng nguyên họ Phùng làm ra), hoặc Tư thiên gia truyền chú mà cụ Trần Văn Giáp cho là của Phùng Khắc Khoan, tên sách như có gì bí hiểm!(9)... đều hoặc ít hoặc nhiều có dùng Nôm. Những tập sách này chưa chắc là do Phùng Khắc Khoan viết tất cả, viết một phần hay không viết. Văn bản của chúng thất tán, linh lạc, phức tạp, bừa bộn, thật giả khó phân, không dễ tìm được những giá trị ổn định về chữ nghĩa, nội dung. Song, nếu Phùng Khắc Khoan viết tác phẩm có tích chất triết học thì cũng dễ hiểu. Ông vốn là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, “thiên tài triết học”(10) của thời đại, từng tỏ ra thông dịch lý qua nhiều áng văn thơ của mình. Thậm chí Phùng Khắc Khoan viết tác phẩm có tính chất võ lược cũng không lạ! Ông chẳng đã từng tòng sự ở doanh quân Trịnh Kiểm, từng được coi như Trương Tử Phòng, từng bày nhiều mưu kế hay, giúp Lê -Trịnh thắng Mạc, thu phục kinh thành, được phong là “Kiệt tiết tuyên lực công thần” của thời Lê Trung hưng đó sao ?

Trong sự nghiệp văn bút của Phùng Khắc Khoan, cũng như nhiều tác giả cùng thời, phần văn thơ chữ Hán vẫn có một định lượng áp đảo so với văn thơ Nôm. Vì thế, bộ phận tác phẩm này có một vị thế quan trọng hàng đầu.

THƠ CHỮ HÁN

Hiện còn gần hai chục văn bản ở các thư viện và nhà thờ Trạng, với nhiều tên gọi và số lượng bài thơ khác nhau giữa các dị bản có in hoặc chép tay thơ chữ Hán của Phùng Khắc Khoan. Sơ bộ khảo cứu các văn bản ấy, thấy thơ chữ Hán của ông có 4 tập.

1. Ngôn chí thi tập: tập thơ “Ngôn chí”, tập thơ nói lên chí hướng của nhà thơ. Đây là tập thơ chính của Phùng Khắc Khoan. Bài tựa viết năm Bính Tuất (1586) có đoạn: “Xem những tập thơ của cổ nhân, trộm muốn vụng dại bắt chước, nhân thế mới đem các bài thơ tự mình viết ra lúc bình nhật tập hợp mà soạn lại, đặt tên gọi là Tập thơ ngôn chí, ấy cũng chỉ là để nói cái chí của riêng một mình mà thôi, há làm những lời lẽ khoe khoang để cho các nhà thơ mai mỉa”. (“Kiến cổ nhân tập lục, thiết thường hiệu tần, nhân dĩ kinh bình nhật sở thủ bút thi giả, tập nhi biên chi, danh viết: Ngôn chí thi tập, cái diệc ngôn phù nhất kỷ chi chí vân nhĩ, khởi cảm vi khoa đại chi từ nhi di thi gia chi tiễu tai!”). Như vậy Ngôn chí thi tập là tên tác phẩm do chính tác giả đặt ra cho đứa con ruột tinh thần của mình và việc định danh ấy được ghi lại trong bài Tựa. Sau này, khi tác phẩm trở thành “con nuôi” của người đời thì dần thêm những tên mới. Lê Quý Đôn không ghi tên các tập thơ Ngôn chí vào phần Nghệ văn chí sách Đại Việt thông sử, nhưng người biên soạn tiếp sách Toàn Việt thi lục của ông vẫn giữ đúng tên ấy trong câu: “Có... Ngôn chí... lưu hành ở đời”. (Hữu... Ngôn chí... hành vu thế). “Phan Huy Chú gọi Ngôn chí thi tập bằng tên Phùng công thi tập. Và rồi những tên Phùng Khoan thi tập, Phùng Thái phó thi, Nghị Trai thi tập v.v. Khi thì có riêng thơ Ngôn chí, khi có thêm thơ đi sứ, đều do người đời sau đặt ra, chứ bản thân Phùng Khắc Khoan không hề đặt các tên ấy cho tác phẩm của mình. Trong sách Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Từ điển văn học, Văn học sử, Từ điển Bách khoa..., khi viết về tác phẩm của Phùng Khắc Khoan, tôi đã lược bỏ những tên gọi sau, để trở về với cái tên cúng cơm do chính tác giả đặt ra cho tác phẩm đầu tay của mình.

Ngôn chí thi tập “theo từng năm mà chép ra, kể từ năm mười sáu tuổi trở đi, để ghi lại cái thời để chí vào việc học. Cứ mười năm thì đóng thành một quyển để xem trình tự của việc học tiến tới như thế nào” (Tựa). Theo cách sắp xếp thi tập ở bài Tựa trên đây thì lẽ ra Ngôn chí phải có 7 tập (tính từ năm khởi thảo 16 tuổi đến năm mất 86 tuổi là 7 thập niên, mỗi thập niên/một tập), nhưng hiện còn không đủ, trình tự cũng chưa thật chặt chẽ, lớp lang(11). Dầu sao thì thơ Ngôn chí bản này, ký hiệu VHv.1951 vẫn là đầy đủ hơn hẳn các bản khác(12).

Theo văn bản chữ viết chuẩn như in, thì thơ Ngôn chí còn lại 5 tập. Tập V (viết từ 57 đến 66 tuổi) sau bài thơ Tự hạ sinh nam (Tự mừng sinh con trai) viết năm 60 tuổi, là bài thơ Sinh niên tự thuật (Tự thuật hàng năm) làm năm 61 tuổi, chỉ thấy nhan đề, không còn lời của bài thơ. Đối chiếu với Mục lục ở đầu sách thì lẽ ra phải có cả toàn văn bài thơ trên và một bài thơ nữa: Mộng trung thi (Thơ trong mộng) mới hết tập V. Không chỉ mất 2 bài thơ ở cuối tập V mà cả thơ của tập VI và tập VII cũng thất lạc. Năm tập Ngôn chí còn lại số lượng không đều nhau, có tập vài chục bài, có tập vài trăm bài, có xen vào vài chục bài của bạn hữu, quan chức xướng họa, tặng tiễn... Cộng với một số bài thơ có tính chất “ngôn chí” ở các thi tập, tuyển tập khác, tổng số thơ Ngôn chí của Phùng Khắc Khoan còn lại khoảng 240 bài, kể cả của những người khác chép xen vào thì dôi ra quãng vài chục bài.

2. Huấn đồng thi tập: tập thơ “Huấn đồng” tập thơ dạy trẻ làm thơ. Năm 1964 khi viết Văn học cổ Việt Nam(13), năm 1979 khi viết Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan(14), Văn học Việt Nam thế kỷ X - Nửa đầu thế kỷ XVIII(15), năm 1984 khi viết Từ điển văn học(16)..., chúng tôi đã dựa vào Kiến văn tiểu lục(17), Toàn Việt thi lục(18), lần đầu tiên giới thiệu tập thơ này với độc giả khi viết về sự nghiệp trước tác của Phùng Khắc Khoan, điều mà nhà thư mục học khả kính Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam(19) in năm 1962 trước đó, và trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm(20), Tập 2, in năm 1960 sau này, đều chưa một lần đề cập tới.

Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết về tập thơ này như sau: “Phùng Khắc Khoan, hiệu là Nghị Trai, có Huấn đồng thi tập biên soạn từ năm Quang Hưng thứ 6 (1583), lúc ấy bản triều chưa khôi phục được kinh thành (Thăng Long). Ông là bậc túc nho, giữ chức vụ nặng nề , mà đề vịnh về tuế thời tiết hậu, cây cỏ, cầm trùng gồm 172 bài, để dạy bọn hậu sinh, ý tứ cách điệu nhàn nhã, không một chút gì tỏ ra trạng thái vội vàng bối rối, như thế chẳng phải người tài cán có thể trông cậy được hay sao?”. Sách Kiến văn tiểu lục được viết năm 1777, sau năm Phùng Khắc Khoan mất (1613) là 164 năm. Có thể đến khi ấy thi tập vẫn còn diện mạo hoàn chỉnh. Song, Lê Quý Đôn cũng chỉ ghi lại được bài Tựa. Còn văn bản tập thơ này chúng tôi khai thác trong sách Toàn Việt thi lục (A 132) phần tuyển thơ thời Lê Trung hưng do người khác biên soạn tiếp Lê Quý Đôn. Sách ghi rõ ở phần tiểu sử đầu tập 20: “Trước tác có Sứ hoa, Ngôn chí, Huấn đồng, Độc thi đa thức lưu hành ở đời”. (Sở trước hữu Sứ hoa, Ngôn chí, Huấn đồng, Độc thi đa thức đẳng tập hành vu thế). ở tập 21, phần tuyển thơ có dòng viết: “Thơ làm từ năm Quý Mùi (1583) niên hiệu Quang Hưng về sau”. (Quang Hưng Quý Mùi tác dĩ hạ). Dòng ghi này cho ta những thông tin ứng với năm biên soạn, đề tài, mục đích làm thơ mà Lê Quý Đôn viết trong Kiến văn tiểu lục, sau đó trích tuyển 34 bài thơ. Như vậy Huấn Đồng thi tập của Phùng Khắc Khoan còn lại một bài Tựa trong Kiến văn tiểu lục và 34 bài thơ trong Toàn Việt thi lục. Số thơ 34 bài này chắc là tuyển chọn, hoặc còn giữ lại được trong số 172 bài của tập thơ Huấn Đồng mà Lê Quý Đôn đã ghi trong Kiến văn tiểu lục.

3. Đa thức tập(21): tập thơ “Đa thức”, tập thơ biết nhiều. Tập thơ này được chúng tôi giới thiệu cùng với Huấn Đồng thi tập từ cuối thập kỷ bảy mươi. Trong Toàn Việt thi lục, tên của tập thơ được viết trong tiểu sử Phùng Khắc Khoan, cùng với tên các thi tập Sứ hoa, Ngôn chí, Huấn Đồng, ở đầu tập 20. Đến tập 21, sau bài thứ 34 Thiên tuế thụ (Cây thiên tuế), bài cuối cùng của tập thơ Huấn Đồng, có câu văn dài như một tiểu dẫn cho thơ Đa thức: “Đọc Kinh Thi thấy có tên các loại cỏ cây, chim muông, trùng cá, nhân lấy đó vịnh thơ đề tên là tập Đa thức (Độc Thi Kinh kiến hữu thảo mộc điểu thú trùng ngư chư vật danh, nhân dĩ mệnh đề danh viết Đa thức tập). Sau câu dẫn này là phần tuyển gần 100 bài thơ, trong đó có khá nhiều bài mất chữ, thiếu câu. Đề tài thơ đúng như lời dẫn trên đây, thường lấy tên những loài cây cỏ, những giống chim muông... trong Kinh Thi vịnh thành thơ phổ cập tri thức cho người đời. Xưa, Khổng Tử thường nói: “Kinh Thi có thể khiến người ta hứng khởi, có thể khiến người ta quan sát, có thể khiến người ta quần tụ, có thể khiến người ta oán thán. Gần thì thờ cha, xa thì thờ vua; lại nhận biết được tên các loài chim muông cây cỏ”(22). Phùng Khắc Khoan viết Đa thức tập là phỏng theo tinh thần ấy.

4. Mai Lĩnh sứ hoa thi tập: tập thơ đi sứ của Mai Lĩnh hầu. Thơ đi sứ của Phùng Khắc Khoan viết từ năm Đinh Dậu (1597) khi ông 70 tuổi, được triều đình cử làm Chánh sứ sang chúc thọ vua Minh, và kết thúc vào năm sau, khi ông hoàn thành sứ mệnh trở về Kinh đô. Hiện nay ở các thư viện trung ương và ở nhà thờ Phùng Khắc Khoan, còn nhiều văn bản thơ đi sứ với tên sách, số lượng bài thơ khác nhau. Về tên thi tập khi Bảng nhãn Đỗ Uông - Thượng thư - Đông các đại học sĩ viết Tựa cho tập thơ đề là: Mai Lĩnh sứ hoa thi tập tự (Bài Tựa tập thơ đi sứ của Mai Lĩnh) vào năm Kỷ Hợi (1599), khoảng non một năm sau khi Phùng Khắc Khoan đi sứ về, thì tên tập thơ đó là: Mai Lĩnh sứ hoa thi tập. Sợ tên bài Tựa kèm theo tên thi tập đặt lên đầu có thể do người thời sau dễ thêm bớt, thì ngay trong ruột bài Tựa cũng ghi rõ tên thi tập trong mạch văn: “Những tập văn thơ ghi hành trình đi sứ, gián hoặc cũng có, nhưng chưa có tập văn nào cổ động đàn văn học, khoái chá miệng người đọc cho bằng Mai Lĩnh sứ hoa thi tập.” (Sứ trình chi tác gián diệc hữu chi, vị hữu cổ xúy tao đàn, khoái chá nhân khẩu như Mai Lĩnh sứ hoa chi tác giả dã). Như vậy, hoặc là Đỗ Uông đọc thơ đi sứ của Phùng Khắc Khoan, rồi lấy hiệu và tước phong của ông là Mai Lĩnh hầu, đặt tên và viết Tựa cho thi tập, hoặc chính Phùng Khắc Khoan đặt tên cho tập thơ rồi sau đó mới đưa cho Đỗ Uông viết Tựa. Từ đó suy ra Mai Lĩnh sứ hoa thi tập là tên ban đầu, tên chính thức, có thể do chính tác giả đặt để gọi tất cả thơ đi sứ của mình. ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang còn 3 sách 3 ký hiệu mang cùng một tên sách(23). Ngoài ra các tên sách Sứ hoa bút thủ trạch thi, Phùng sứ thần thi tập, Mai Lĩnh Thượng thư Nghị Trai Phùng Khắc Khoan sứ hoa thủ trạch thi tập, Sứ hoa thi tập...(24) đều không phải do Phùng Khắc Khoan trực tiếp đặt ra lúc sinh thời. Tuy mang nhiều tên và còn nhiều sách, với diện mạo tính chất văn bản tương đối phức tạp, song lược qua các thi tập thấy có thể định lượng: Mai Lĩnh sứ hoa thi tập còn khoảng 140 bài thơ văn câu đối.

Tập thơ có ba mảng chính: thứ nhất là thơ tự thuật trên đường đi sứ Bắc, thứ hai là thơ chúc thọ vua Minh, thứ ba là thơ xướng họa với quốc sứ Triều Tiên, mở tình hòa nghị Triều Việt.

Ngoài 4 tập thơ trên đây, trong Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm có Truyện nữ thần ở Vân Cát (Vân Cát nữ lục) ghi lại hai lần gặp gỡ giữa Phùng Khắc Khoan và Liễu Hạnh công chúa, một vị thần của Đạo giáo. Cuộc gặp gỡ ly kỳ thơ mộng giữa Tiên và Người ấy còn để lại một số câu chữ đối đáp, chiết tự; thơ và bài Tây hồ quan ngư (xem đánh cá ở hồ Tây) 42 câu. Trong đó, Phùng Khắc Khoan, một thi nhân vừa uyên bác vừa tài hoa đã có những vần thơ khoáng đạt, thanh tao đầy ý vị.

Cuối cùng xin nói về tập thơ Phùng sứ quân tiễn thi tịnh cảnh vật vịnh (Thơ tiễn và vịnh cảnh vật của Phùng sứ quân) mà có sách cho là của Phùng Khắc Khoan, thì đích thực lại là tập thơ ở thời Nguyễn, với danh nhân, địa danh... chỉ triều đại này mới xuất hiện. ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tập thơ có ký hiệu là A.1576; ở thư viện Viện Văn học có bản dịch mang ký hiệu DH 105- 106, ngoài bìa đề bằng quốc ngữ: Phùng Khắc Khoan, trên dòng chữ Hán Phùng sứ quân tiễn thi tịnh cảnh vật vịnh. Xem kỹ thì hóa ra tên tập thơ: Phùng sứ quân tiễn thi tịnh cảnh vật vịnh là do một người nào đó đặt ra khi chép sách, dựa vào nhan đề khá dài của bài thơ ở ngay đầu sách: “Ninh Bình thự tập Trần Tư Thành tiễn Phùng sứ quân Bắc sứ thời chư tiễn thi tập lục tịnh cảnh vật vịnh” (B.D.T nhấn mạnh). Chính sự sơ suất, thậm chí tùy tiện của người đặt tên sách và cả người dịch sách..., đã là nguyên cớ dẫn đến lầm lẫn của sách Phùng Khắc Khoan - Cuộc đời và thơ văn (Sđd). Thực hư đã rõ, tập thơ mang tên lạ hoắc này, với nhiều nhân danh(25), địa danh(26) chỉ thấy ở đời Nguyễn, có thể là tác phẩm của một ông Phùng sứ quân(27) nào đó của triều đại này mà ta chưa rõ lai lịch, chứ không phải là tác phẩm của Phùng Khắc Khoan.

VĂN CHỮ HÁN

Phùng Khắc Khoan viết hơn một chục bài văn chữ Hán. Có bài được chép trong các tác phẩm của ông, có bài còn được bảo lưu trong kho sách văn khắc Hán Nôm, còn các bài tản mát chưa sưu tập được, có bài đã mất, số còn lại cũng có bài cần thẩm định thêm về mặt văn bản.

Trước hết phải kể đến 2 bài Tựa viết cho 2 tập thơ Ngôn chí Huấn Đồng. Thứ đến là các bài văn bia viết cho nhiều nơi như: Vĩnh Phúc tự bi (Văn bia chùa Vĩnh Phúc - 1583 - Thanh Hóa), Đình Quán tự bi (Văn bia chùa Đình Quán - 1592 - Hà Nội), Văn bia Lê Đại Hành (1602 Trung Lập, Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa), Phật Tích sơn Nguyệt Tiên kiều bi (Văn bia Nguyệt Tiên kiều ở chùa Phật Tích, tức Chùa Thầy - Hà Tây - 1602), Cổ Pháp điện tạo bi (Văn dựng bia điện Cổ Pháp - 1604 - Bắc Ninh. Điện Cổ Pháp ở Đình Bảng thờ Lý Bát Đế), Trùng tu Long Khánh tự bi (Văn bia trùng tu chùa Long Khánh - 1607 - Hà Nội), Văn Lý hầu Trần Công bi (Văn bia Văn Lý hầu Trần Danh Tĩnh - 1607 - Hà Tĩnh), Phàm công đức bi (Văn bia ghi công đức - 1609 - Thanh Hóa) v.v...

Ngoài ra Trần Lê Sáng có phát hiện 5 bài văn trong Nghị Trai thi tập như: Quyền tế đích mẫu văn (Văn tế tạm bà mẹ cả), Đại lễ tế văn (Văn tế ngày đại lễ), Phụng tự dân tế phúc thần văn (Văn tế phúc thần dân phụng thờ) v.v...(28)

Trên đây, qua lược thảo về văn bản Hán Nôm, chúng tôi đã minh định tất cả những tác phẩm do Phùng Khắc Khoan viết ra và hiện còn lại. Chúng tôi cũng cung cấp những thông tin để thông báo với độc giả một vài tác phẩm nên mặc nhận, còn tồn nghi hoặc không thể tin là do Phùng Khắc Khoan viết ra. Tuy nhiên, sách Hán Nôm liên quan đến Phùng Khắc Khoan quá nhiều, chúng tôi chỉ dám lược khảo một số văn bản chính. Nếu như còn sót thiếu, lầm lẫn thì cũng đành tạ tội với cổ nhân, đợi các đồng nghiệp bổ cứu. Sau đây là một bản thống kê khối lượng tác phẩm Hán Nôm của Phùng Khắc Khoan. Những đầu sách còn tồn nghi không đưa vào đây:

Tên tác phẩm Số lượng Thể tài Thiện bản
Lâm tuyền vãn (Đào nguyên hành) 185 câu thơ Nôm Vãn ca lục bát Bản Nôm để ở nhà thờ Phùng Khắc Khoan
Ngôn chí thi tập 240 bài Thơ luật Đường. Vài bài cổ thể, vài bài từ. Ngôn chí thi tập VHv.1951 và VHv.1442
Huấn đồng thi tập 34 bài Thơ luật Đường Toàn Việt thi lục – A.132
Đa thức tập 98 bài Thơ luật Đường Toàn Việt thi lục – A.132
Mai Lĩnh sứ hoa thi tập 140 bài Thơ luật Đường Vài bài cổ thể, câu đối, đoạn văn Mai Lĩnh sứ hoa thi tập – A.2805. Sứ hoa bút thủ trạch thi – A.2011. An Nam quốc sứ thần vấn đáp lục
Văn chữ Hán 2 8 5 Tựa Văn bia Văn tế Ngôn chí thi tập - Kiến văn tiểu lục Văn khắc Hán Nôm Việt Nam Nghị Trai thi tập – A.597

Qua những trang lược khảo văn bản, thấy Phùng Khắc Khoan đã viết trên năm trăm bài thơ, mươi bài văn và một bài vãn Nôm dầy dặn, Phùng Khắc Khoan được xem là một trong vài tác giả viết nhiều nhất kể từ thời ông về trước.

12 – 2000.

CHÚ THÍCH

(*). “Đây là những trang viết lược khảo văn bản đã được xuất bản trong sách Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Tác giả - Tác phẩm in ở Hà Tây năm 2000. Nhận thấy những kiến giải về văn bản học ở đây sẽ hữu ích hơn khi được đăng tải ở một Tạp chí khoa học chuyên ngành trong phạm vi cả nước. Tôi bổ sung, chú giải thêm để thành một bài viết hoàn chỉnh.

(1). Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Bùi Duy Tân - Ngọc Liễn. Hà Sơn Bình. 1979. Văn bản Nôm Lâm tuyền vãn ở sách này lấy từ bản để ở nhà thờ, được khảo dị với bản ở Thượng Cát, Từ Liêm, Hà Nội. Thực ra trước đó, Bùi Văn Nguyên đã in trong Tư liệu tham khảo lưu hành nội bộ của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I và công bố 41 câu/185 câu trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam in năm 1976 (Nxb. Văn học. H.). Năm 1985 Trần Lê Sáng in lại có sửa chữa bản in của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan trong công trình của mình: Phùng Khắc Khoan. Cuộc đời và thơ văn. Nxb. Hà Nội. H. 1985.

(2). Xem Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sđd tr.104 - 114.

(3). Nam triều công nghiệp diễn chí: Nguyễn Khoa Chiêm - Bản dịch. Nxb. KHXH - H. 1995.

(4). Nam thiên trân dị tập. Mai Quận Công - Bản dịch. Nxb. Thế giới - H. 1997.

(5), (6). Lịch triều hiến chương loại chí. Phan Huy Chú - Bản dịch. Nxb. Sử học. H. 1960 - 1961.

(7). Lịch triều hiến chương loại chí - Văn tịch chí. Sđd

(8). Xem Chu Dịch quốc âm ca. Đặng Thái Bàng. AB.29 Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(9). Ông Phùng Khắc Đồng trên Văn nghệ trẻ số 23 ra ngày 6-6-1999, trong bài Minh nông chiêm phả có phải là Tư Thiên gia truyền không? thì cho là Tư Thiên gia truyền đang còn. Đó là sách của dòng họ Phùng, nhưng lại là sách nông học rất gần với sách Minh nông chiêm phả của Trần Cảnh (1684 - 1758).

(10). Xem Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam. Trường Chinh. Nxb. Sự thật, H. 1974, tr.34.

(11). Chẳng hạn Toàn Việt thi lục (A.132) tuyển thơ Ngôn chí ít hơn hẳn tập này, nhưng lại có những bài mà tập này không có như: Sinh viên tự thuật làm năm 61 tuổi, Đinh Dậu phụng sứ thuật hoài làm năm 80 tuổi... Hoặc như ở Ngôn chí II có bài làm năm Giáp Dần khi cha mất, sau đó lại có bài “Mồng một tết nhớ cha” (Nguyên đán tư phụ thân). “ở xa chúc thọ cha” (Dao thọ phụ thân)... có lẽ là thơ viết khi cha còn sống, đây chắc là do người sau sắp xếp nhầm lẫn thơ Ngôn chí.

(12). Năm 1963, tôi đã đọc văn bản tập thơ này ở thư viện Khoa học xã hội. Bấy giờ sách mang tên: Ngôn chí thi tập VHv. 1591, đề rõ là: mới mua được của ông Phạm Văn Sính với giá 5đ. Xem Thư mục Hán Nôm (10 tập) của Thư viện Khoa học xã hội in Rô-nê-ô 1969 - 1971, ở phần II - tập 4 - tr.540. Nhưng đến bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Tập 2, tr.592-593 ký hiệu sách Ngôn chí thi tập bị in lầm thành VHv.1915 (Vốn là ký hiệu của Cổ văn hợp tuyển). Thư viện, thư mục sai sót như thế, nên một số học giả không biết có đầu sách đầy đủ nhất về thơ Ngôn chí này, dẫn đến nhận xét thống kê không đúng về số bài thơ trong Ngôn chí thi tập.

(13). Văn học cổ Việt Nam. Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân. Nxb. Giáo dục. H, 1964.

(14). Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - Bùi Duy Tân - Ngọc Liễn - Sđd.

(15). Văn học Việt Nam - Thế kỷ X - Nửa đầu thế kỷ XVIII. Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương. Nxb. ĐH & THCN. H. 1979.

(16). Từ điển văn học. Tập II. Phùng Khắc Khoan. Bùi Duy Tân. Nxb. KHXH. H. 1984.

(17), (18) Kiến văn tiểu lục: A.32 Toàn Việt thi lục: A.132. Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(19). Lược truyện các tác gia Việt Nam. Tập I - Trần Văn Giáp. Nxb. KHXH. H. 1971.

(20). Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II. Trần Văn Giáp. Nxb. KHXH. H. 1990.

(21). Chữ ( ) thông thường đọc là: thức và nghĩa là: biết, nhưng cổ nhân thì lại quen đọc chữ này là “chí”, âm và nghĩa hiểu là chữ (  ), nghĩa là: ghi nhận. Hai cách đọc (thức chí), có hai nghĩa (biết và ghi nhận) đặt vào văn cảnh này đều thông cả.

(22). Nguyên văn: “Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; đa thức (chí) ư cầm thú thảo mộc chi danh”. Luận ngữ - Thiên Dương hóa - Chương 9.

(23). Mai Lĩnh sứ hoa thi tập: A.241, A.2557, A.2875.

(24). Kể cả tên gọi phần Thơ đi sứ chìm trong tên sách chung như: Phùng Xá Mai Quận công Phùng Tướng công sứ hoa thi tập trong Ngôn chí thi tập VHv.1442.

(25). Như: Cử nhân Phạm Văn Bích (đỗ 1834), Tô Văn Thưởng (1846), Thám hoa Phan Dưỡng Hạo (1847), Phó bảng Trần Công Thuyên (1844), Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hoàng giáp Bạch Đông Ôn (1835), Nguyệt áng Tiến sĩ Lưu Quỹ (1835)...

(26). Như: Ninh Bình (thành tỉnh 1831), Nam Định (1831), Hà Nội (1831), Phú Yên (1831) Giang-lưu-ba (tức Gia-các-ta), Hương Thủy...

(27). Ngày xưa Sứ quân chỉ một chức quan, thảng hoặc chỉ người đi sứ. Thơ trong tập có chuyện tiễn một quan chức đỗ Tiến sĩ đi sứ. Có điều, xoay trở nhiều cách, chúng tôi vẫn chưa tìm ra ai là Tiến sĩ họ Phùng đi sứ, làm quan ở các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.

(28). Xem Phùng Khắc Khoan - Cuộc đời và thơ văn - Trần Lê Sáng. Sđd. tr.164, 168, 169, 259, 260. Chúng tôi có xem văn bản Nghị trai thi tập A.597 thì thấy trên dưới các bài văn này còn có các bài văn khác. Dấu tích để khẳng định hay phủ định đây là tác phẩm của Phùng Khắc Khoan đều còn ít ỏi. Vì thế, biện pháp tình thế ở đây nên là mặc nhận, song vẫn bảo lưu sự tồn nghi, trước hết là với bài Quyền tế đích mẫu văn.

TB

NHỮNG BÓNG DÁNG “CON NGƯỜI BÉ NHỎ” DƯỚI NGÒI BÚT ĐẶNG HUY TRỨ

TRẦN THỊ BĂNG THANH

Khác với nhiều nhà thơ thời Trung đại, Đặng Huy Trứ thường ghi chú rõ thời gian sáng tác các thi phẩm của mình. Lần theo mốc năm tháng đó, có thể biết được mối quan tâm và quan điểm thẩm mỹ của ông trong từng giai đoạn. Cứ theo nhóm Trà Lĩnh(1), hành trình thơ của của Đặng Huy Trứ có thể chia làm 10 chặng theo những mốc chính về thân thế và tuổi tác ông. Chặng thứ nhất là năm 15 tuổi (1840) với những ấn tượng về cuộc sống còn nhiều hồn nhiên và phần nào thơ trẻ. Chặng thứ hai (1841 - 1846), thời thanh niên là học trò rồi dạy học nhưng vẫn ở quê nhà. Chặng thứ ba (1847 - 1856), Đặng Huy Trứ đã học thành tài, đã đỗ Tiến sĩ nhưng cũng đã nếm vị đắng của khoa cử và biết đến “sự gian nan của miếng ăn” khi trách nhiệm người chủ gia đình đang đè nặng lên vai ông. Chặng thứ tư (1856 - 1860) bước đầu ra làm quan, thứ năm (1861 - 1864) làm Ngự sử và thứ sáu (1864 - 1865) làm Bố chánh Quảng Nam, là thời kỳ Đặng Huy Trứ được tin dùng. Ông thể hiện rõ tinh thần hăng hái, ý thức về phận sự: “Chức phận không tròn kém loài vật, vẹn tròn chức phận mới là người”. Ông có niềm vui không trọn vẹn, bởi vì lúc bấy giờ bao trùm lên tất cả là nỗi lo về sự mất còn của đất nước trước họa ngoại xâm Tây Dương. Ba chặng tiếp theo, chỉ có 4 năm (1865 - 1868) mà Đặng Huy Trứ hai lần phải cởi bỏ mũ áo, thay đổi trang phục lặn lội sang nước người để “học khôn” mong chấn hưng đất nước. Xen giữa hai lần xuất ngoại ấy, Đặng Huy Trứ có được hơn một năm làm Bình chuẩn sứ ở Hà Nội để thử nghiệm một phương sách làm ăn mới: buôn bán. Không rõ ông có thành công hay không nhưng rồi ông lại phải xuất ngoại lần thứ hai và khi về thì đổi sang nhiệm vụ mới “Khâm phán quân vụ Bắc Kỳ” (1869 - 1874). Thời gian này là chặng sáng tác và cũng là chặng đường đời cuối cùng, Đặng Huy Trứ bận nhiều việc binh và ông mất tại căn cứ chống Pháp Đồn Vàng.

Nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Đặng Huy Trứ có thế thấy bên cạnh “cái tôi” nhà thơ với những toan lo, day dứt về nghĩa vụ kinh bang tế thế còn nổi lên bóng dáng những thường dân bé nhỏ với những buồn vui của cuộc sống đời thường. Mặc dù số lượng bài thơ ông dành cho họ chỉ gồm một tỷ lệ nhỏ nhưng cũng đã bao quát khá đủ những khuôn mặt chính: nông dân, người lao động, nhà nho nghèo và những người buôn bán nhỏ. Ngay từ khi mới 15 tuổi, trong con mắt niên thiếu dù còn nhìn núi sông cây cỏ với một cách nhìn xanh biếc non tơ:

Phong ngọ ngọ,
Thạch canh canh.
Thúy trích bán không vũ,
Đại mạt tứ vi bình.
Tuyền thạch phân minh yêu ngã phú,
Nhất sơn hành tận nhất sơn thanh.
(Thướng sơn hý thành)

(Núi lố nhố
Đá chênh vênh.
Biếc lưng trời mưa rỏ,
Màn tứ phía vây quanh.
Suối đá đòi thơ ta rỉ rả.
Dải núi xanh rồi dải núi xanh.)
(Lên núi làm thơ)(1)

hay còn mải mê với cây lan chậu, chú cá cảnh trong bình:

Gia ngư hà xứ lai !
Thiên địa nhất tiểu hồ,
Tuy vô bình tảo lạc,
Chí dĩ tại giang hồ.
(Hồ lý ngư)

(Cá ngon đâu tới đây !
Trời đất thu bình nhỏ,
Chẳng được thú rong bèo,
Chí sông hồ đã tỏ.)
(Cá trong bình)

Cậu thiếu niên họ Đặng vẫn sớm phát hiện ra những nghịch cảnh thương tâm. Một ông lão vì miếng ăn mà cả đời làm lụng không dám nghĩ đến nhọc nhằn:

Bạch phát cân trung mãn,
Kim ô bối thượng huyền.
Chỉ duyên sinh kế cấp,
Cần khổ bất tri niên.
(Kiến lão ông đài than)

(Tóc trắng đầy trong khăn,
Vàng đen đè trĩu lưng.
Chỉ vì sinh kế quẫn,
Nhọc nhằn quên tháng năm.
(Thấy ông lão vác than)(2)

Một số người khác cũng vì miếng ăn phải đem thân làm tôi tớ chịu sự đánh mắng, khinh bạc đến nỗi Đặng Huy Trứ cũng phải bất bình:

Thiên địa chi tính nhân vi quý,
Ngã diệc nhân giả, bỉ diệc nhân.
Hà sự triêu triêu tứ tiên mạ ?
(Quý dụ tử hữu tiên mạ nô tỳ giả).

(Trời đất sinh ra, người là quý ,
Ta là người, họ cũng là người.
Sao cứ đánh mắng người ta mãi ?)
(Con nhà giàu có kẻ đánh mắng kẻ ăn người ở)

Sau này trong suốt cuộc đời dạy học, làm quan hay giả dạng thương nhân sang Trung Quốc, Đặng Huy Trứ cũng không bao giờ làm ngơ trước những số phận nghèo khó. Lòng ông tràn đầy trắc ẩn khi nhìn những nấm mồ vô chủ. Bằng việc làm cụ thể và bằng thơ, ông đã tỏ nỗi xót thương sâu sắc và vô tư đến những con người xấu số:

Vô nhân tỉnh thị trủng thành hoang,
Tế tảo tòng lai, tuế sự thường.
Thảo mộc sam trừ triêu hạ sáp,
Sinh tư điện hiến vãn thiêu hương.
Đồng tâm tỉnh thị liên khô cốt,
Dị báo nguyên phi vọng ế Tang.
Địa hạ trần nhân tằng thức phủ ?
Sinh tiền tổ phụ diệc lân tường !
(Tế tảo hoang phần)

(Không người thăm viếng, hóa mồ hoang,
Rày cứ hàng năm cúng, giẫy thường.
Sớm dọn cỏ cây đưa lưỡi cuốc,
Chiều dâng lễ vật thắp cây nhang.
Xương khô luống gọi lòng thương xót.
Việc nghĩa mong đâu chuyện trả ơn(4)
Dưới đất hay chăng ai nghỉ đó,
Ông cha ngày trước xóm giềng chăng ?)
(Tảo mộ hoang)

Ông còn coi việc đắp điếm cho những người chết đường chết chợ cũng là một phần trách nhiệm kẻ làm quan. Ông đã nhiều lần xin với triều đình lập nghĩa trủng cho họ và đến khi được chuẩn y, nghĩa trủng làm xong có bồn hoa, có hồ tưới, bãi tha ma đỡ vẻ thê lương, ông mới yên lòng:

Sinh sinh hóa hóa nhất hồng lô,
Bộc cốt hoành thi thị ngã cô.
Thử địa tạm y ngô tác chủ,
Hữu quan liêu miễn thổ thân phu.
Dữ xuân lai khứ hoa song kính,
Tùy vũ doanh hư thủy bán hồ.
Duy khủng tàn hồn u trệ cửu,
Chỉ khôi tằng đáo cửu tuyền vô ?
(Nghĩa trủng thành, điệp “Quảng Xương nghĩa chủng” nguyên vận)

(Sinh ra và mất đi đều chung trong lò tạo hóa,
Để cho xương phơi xác dãi, đó là lỗi của ta.
Nơi đây đã tạm giao cho ta làm chủ,
Phải lo có áo quan để đất cát khỏi lấm vào da họ.
Cùng với xuân qua xuân lại có hai luống hoa,
Theo mưa vơi đầy có lưng hồ nước.
Chỉ lo mảnh hồn tàn quanh quất đã lâu,
Nắm tro tiền giấy có đến suối vàng hay chăng ? )
(Nghĩa địa xây xong, làm theo bài “Nghĩa địa Quảng Xương”)

Có một điều khác với nhiều nhà thơ tiền bối, Đặng Huy Trứ thường mang tâm trạng thấp thỏm “trông người lại ngẫm đến ta” thể hiện cảm nhận lo âu trước cuộc đời đầy bất trắc. Cũng ở nghĩa địa Quảng Xương này Đặng Huy Trứ, trong mối thương tâm, đã nói đến sự “bất bình đẳng” khi họ cùng sống trong cõi trần hoàn. Và mặc dù lúc đó đang được tin dùng nhưng chính ông đã dự cảm được sự bấp bênh của giàu sang:

Quy ký thùy năng ngoại hóa lô?
Thương tai tư bối độc hà cô!
Y quan thử địa duy hài cốt,
Hồ thuế sơ niên diệc phát phu.
Nhuận trạch chính kỳ quân vũ lộ,
Điêu linh cừ phựu thán giang hồ.
Khả liên thử ngoại thao thao giả,
Bảo đắc phù vân phú quý vô !
(Nghĩa trủng)

(“Sống gửi thác về” - tay tạo hóa,
Xót thay, lũ họ tội gì đây.
Nắm xương chôn vội không quan quách,
Da tóc sinh ra vẫn đủ đầy!
Lễ tết đều nhau, mưa móc gội,
Giang hồ riêng một, điêu linh thay!
Đáng thương bao kẻ ham danh lợi,
“Phú quý phù vân” dám chắc tay?
(Nghĩa địa mộ hoang)

Riêng đối với đám nhà nho nghèo, Đặng Huy Trứ còn dành cho họ sự đồng cảm và thấu hiểu sâu sắc. Quả là ở thời đại ông chuyện đói no cũng không xa lạ gì đối với kẻ đọc sách và lý tưởng an bần lạc đạo “một giỏ cơm một bầu nước” không phải dễ dàng thực hiện được. Và Đặng Huy Trứ đã nói đến một “hàn nho” bán chữ, điều này chưa có ở các nhà thơ thế kỷ trước:

Dục thư sỉ tác đố ngư nhi,
Hồ khẩu vô như mãi tự si (sư)?
Chỉ giá tài nhân tam tiết quý,
Sinh nhai thích dĩ nhất niên kỳ.
Họa đồ, hỷ pháo tương vi ngũ,
Đoản bức, trường điều túc liệu ky (cơ).
Ngã đắc nhược ngôn đồng mỹ ngọc,
Toàn gia đán tịch diệc ư ti (tư).
(Hàn nho mãi tự)

(Mọt sách, bán chữ, nhục!
Ai hổ hơn ta nay!
Giấy đắt nhờ tư tết,
Một năm chỉ dịp này.
Xếp hàng cùng tranh pháo.
Dài ngắn mong tạm no,
Đợi người khen chữ đẹp,
Cả nhà hôm sớm chờ.)
(Nhà nho nghèo bán chữ)(5)

Câu chuyện này và cảm giác này sang đầu thế kỷ XX sẽ được Nguyễn Khuyến nhắc đến với một tâm trạng ngậm ngùi hơn, bởi vì lúc ấy chữ nghĩa đang ở vào thời “vận hạn”(6). Và chỉ vài chục năm sau (1936), dưới cái nhìn sắc sảo đầy nuối tiếc của Vũ Đình Liên, họ - nhà nho nghèo, nghề bán chữ và cả nền nho học cổ truyền sẽ bị rơi vào quên lãng một cách phũ phàng khi xã hội Việt Nam đi vào hiện đại:

Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ!
(Ông đồ già)

Tuy vậy trong đám dân thường “bé nhỏ” ấy, Đặng Huy Trứ dành nhiều tình cảm đến hai loại nhân vật: người nông phu và phụ nữ bình dân. Loại nhân vật thứ nhất được Đặng Huy Trứ viết nhiều trong thời gian còn đi học. Có khi họ là đối tượng nghệ thuật chủ yếu. Đặng Huy Trứ thông qua họ để nói đến công việc nhà nông và cũng vì thế mà họ được hiện diện thành một bóng dáng. Đó là một anh thợ cày vực nghé, công việc của anh khó nhọc nhưng nhiều niềm vui:

Đồng cốc tiên nghiêm thượng vị thuần,
Giáo tha ninh yếm ngẫu canh tần.
Lão ngưu kiện tự tương lang bối,
Đoản dẫn trường tiên biến thấp chân.
Bộc bối đốn vong nông sự khổ,
Huy quăng tối hỷ tính linh tuần.
Bỉ cương thử đại vô nhàn nhật,
Phì nộn tòng kim chính cập thân.
(Canh phu giáo độc)

(Vực nghé lần đầu, nghé chưa quen,
Cày đôi há ngại tập nhiều phen.
Trâu già, nghé khỏe, chân nương tựa,
Chão ngắn, roi dài, ruộng dưới trên.
Mải việc, phơi lưng quên nỗi khổ,
Vâng lời, thạo bước đáng lời khen.
Con cày con nghỉ không ngày rảnh,
Xong vụ, chăm cho mau béo lên.)
(Thợ cày vực nghé)

Đó là một ông già trồng rau cần cù:

Lão phố xuân dung thái nhất viên,
Tự gia bão quán mạc hiềm phiền.
Thần hôn mỵ giải tâm kiêm lực,
Vũ lộ quân chiêm diệp đáo căn.
Trúc hữu tương lân, hoa tác bạn,
Lô nhi tiệm trưởng, giới sinh tôn.
Tha thần hạnh bất di phong phỉ,
Khuông phủ tài kham đáp chủ ân.
(Cấp tuyền quán thái)

(Ông lão, rau xuân, một mảnh vườn,
Tự tay xách nước tưới chăm luôn.
Thay mưa móc, thấm đều cành gốc,
Dốc lực tâm vào sớm lẫn hôm.
Vui với hoa bầu cùng trúc bạn,
Dần sinh cải cháu, lớn lau con.
Mai ngày cọng lá thu không sót,
Đầy rổ, đầy nồi đáp chủ ơn.)
(Múc nước tưới rau)(7)

Rõ ràng là chỉ qua một công việc cụ thể, bình thường của nhà nông – múc nước tưới rau – ngòi bút Đặng Huy Trứ đã làm hiển hiện lên hình ảnh một “lão nông tri điền” với thái độ lao động đầy trách nhiệm, say mê và một triết lý sống lạc quan. Trong một trường hợp khác - Ông lão đan đồ tre (Lão ông biên trúc), bên cạnh vẻ đẹp tâm hồn, ngoại hình của nhân vật phần nào cũng đã được để ý tới:

Tập vĩ xuyên kinh tâm tượng xảo,
Công kiên nhu khúc cốt cân cường.

(Tay nắn cứng mềm gân cốt khỏe,
Nan đan khéo léo dọc ngang đè.)

Tiếc rằng số nhân vật được xuất hiện theo cách này không nhiều lắm. Phần lớn Đặng Huy Trứ nói đến công việc của người nông dân, đến khung cảnh xóm làng và đặc biệt là đời sống của họ. Chính vì vậy họ thường hay xuất hiện dưới dạng một đám đông, không tên tuổi, không cá biệt - nhân vật quần chúng như cách gọi của sân khấu. Khi là những “dân cùng, nhà khó” đi “mò hến trong ngày hè tạnh ráo” “quản gì bùn cát lấm láp, miễn là được một mẻ đầy” (Tình thiên thái hiện); khi là đám “dân của ta đủ sức xoay trời” đắp đá chắn nước cho bờ sông khỏi lở (Thạch chủng ngự hà), hoặc chăm chỉ khơi giếng đào ao để “mạch nước ngọt tuôn ra, thôn xóm cùng hưởng” (Đào tỉnh, tạc trì). Có khi họ chỉ là những cái bóng trong ánh sáng ban mai trên đồng “thợ cày nhận ra nhau là qua bóng, hạt cơm trắng vừa ăn còn dính trên môi” (Ảnh hạ canh phu tương nhận diện, Bàn trung bạch xán chính niêm thần - Điền xá thần quang); cũng có khi là người gia trưởng khéo lo toan “lợp mái sửa tường” khi “cây ngô đồng mới báo cái lạnh mùa thu” (Tu tường cái ốc)... Cũng nhiều khi bên cạnh nỗi nhọc nhằn vất vả còn là cảnh buổi tối bên ấm nước “chè xanh giải khát” mà niềm vui, sự đầm ấm được thể hiện qua vài nét chấm phá khá sinh động ở các nhân vật khác nhau:

Nông phu tranh vấn bào đa thiểu,
Tàm phụ tương khan sắc đạm nùng.

(Mấy bác nông dân tranh nhau hỏi chè bọt nhiều hay ít,
Mấy cô chăn tằm thì xem sắc nước đậm hay nhạt)
(Thanh trà giải khát)

Nhìn chung những bài thơ viết về nông dân và nông thôn trong thời gian tác giả còn ở quê đem lại những chân dung phác họa về người lão nông, trai cày mạnh mẽ, tươi tắn. Chính họ đã làm nên không khí tươi mát, thanh bình của làng quê cổ truyền thuần phác, nhân hậu “tối lửa tắt đèn có nhau”, dù không trù phú, cần kiệm nhưng không đến nỗi xơ xác tiêu điều. Những bức tranh quê này sẽ không còn được gặp nhiều ở các chặng sáng tác sau, đặc biệt là khi ông làm Bố chánh Quảng Nam. Bấy giờ là năm 1864, Quảng Nam bị đói, nhân dân xin Bộ Lại cử Đặng Huy Trứ về lo việc “chăn dân”. Tới nơi, ngoài một số việc làm về tổ chức nhân sự, Đặng Huy Trứ tập trung lo giúp dân cứu đói. Nhìn cảnh dân một vùng “xưa có tiếng là màu mỡ, kẻ dệt có thừa vải, người cày có dư thóc” “thế mà lụt hạn, loạn li, mất mùa, gặp mãi tai ương” khiến “sức vì thế mà kiệt, của cải vì thế mà hết”, “phải sống trong nước lửa, bỏ nhà đi tha hương” ông thật không nỡ. Ông tự trách, tự nhận tội về mình để xin trời làm mưa (Đảo vũ). Thấy “dân đói chạy đông chạy tây kiếm ăn” ông khuyên mọi người nên cứu giúp nhau: “Người quân tử và người có lòng nhân gặp cảnh ngộ này phải hết sức giúp đỡ bằng mọi cách, chớ từ nan!” (Cơ dân hữu đông tây tựu thực giả khuyến dĩ tương chu ngẫu thành nhất luật); ông kêu gọi nhà giàu hãy “tự giảm bớt một phần cơm khiến cho bốn năm đoàn dân đói có thể no lòng; bát cháo trưa chỉ nhờ vào tấm lòng hậu hay bạc, lưng cơm hụm nước có thể cứu khỏi chết chóc” (Thí chúc). Và ông thật sự vui mừng khi “thân hào có người nấu cháo cho dân đói” (Thân hào hữu chử chúc tứ cơ giả, dư ký kỳ tính danh dĩ thượng văn, nhân kỷ thành luật), khi triều đình phái các quan đến để cứu nạn cho dân (Đồng khâm phái liệt đài điều tễ tai lê tiệm hữu khởi sắc chí hỷ)... Tuy nhiên về phương diện sáng tác, người nông dân ở những thi phẩm này không phải nhân vật, đối tượng nghệ thuật của Đặng Huy Trứ mà họ chỉ là tấm gương phản chiếu tâm tư, nhân cách ông Bố chính Quảng Nam mà thôi.

Đối với loại nhân vật thứ hai - nhân vật phụ nữ, Đặng Huy Trứ nối tiếp các thi nhân tiền bối về cách nhìn giàu tính nhân văn, ưu ái nhưng diện miêu tả thì đậm nét hơn ở một khu vực hẹp: cuộc sống đời thường của những người con gái, đàn bà dân dã nghèo khó. Khác hẳn các thi nhân thế kỷ XVIII, Đặng Huy Trứ hầu như không miêu tả những giai nhân tài hoa sắc nước hương trời. Trong thơ của ông chỉ nổi lên gương mặt những thiếu phụ thôn quê làm ruộng, chăn tằm dệt cửi, quanh năm bận rộn lo toan, công việc thì thận trọng tỷ mỷ “đích thân phải làm tất cả” (Tang phụ tự tàm). Nếu như những người đàn ông ngoài công việc đồng áng còn có thể khề khà bên ấm chè xanh thì phụ nữ việc nhà không lúc nào rời tay. Họ nhặt nhạnh từng cây rạ “học lối tiết kiệm theo nếp nhà” để “giúp cho việc bếp núc” mặc dù đun nấu rất khó, đến nỗi “cơm cháo nấu xong thì rõ tài nữ công”; ngoài ra những cọng vương vãi thì đem ủ ấm cho chó, cho lợn (Hòa căn đông thoán) không bỏ phí chút gì. Ban ngày vất vả với từng ấy việc, nhưng ban đêm cũng không phải lúc nghỉ ngơi, mà là thời gian dành cho việc chăn nuôi và nhất là xay thóc giã gạo. Có điều những người đàn bà con gái ấy không coi là cực nhọc, họ còn tìm thầy niềm vui, hạnh phúc trong công việc. Dưới đây là quang cảnh một buổi giã gạo dưới trăng:

Nhật sự điều tang, dạ bạn thung,
Ca thanh cao xứ nguyệt quang dung.
Lưu oanh địch lịch gia gia đối,
Cố thố bồi hồi viễn viễn phong.
Chử cữu giao tình ưng mạc luận,
Vũ nghê thanh hứng tận kham cung,
Cộng ngôn bách lý trường vô dạng,
Cường kiện, tiên nga cánh hảo phùng.
(Nguyệt khuy thung tướng)

(Ban ngày bận làm ruộng, chăn tằm, đêm đến lại vây quanh cối gạo,
Tiếng hò vút lên cao hòa tan vào ánh trăng.
Chày khua vang mọi nhà thánh thót như tiếng oanh.
Trăng ngập ngừng trên núi xa như muốn ngoái lại.
Bàn chi đến cuộc giao duyên bên cối gạo,
Hãy tận hưởng hứng thú thanh nhã trước vũ khúc nghê thường.
Đều nói rằng đường xa trăm dặm có ngại gì ?
Khỏe mạnh, sẽ gặp lại được tiên nga.)
(Trăng nhòm cảnh giã gạo)

Dưới ngòi bút của Đặng Huy Trứ những thiếu phụ, thiếu nữ thôn dã thật nết na, chăm làm nhưng họ có cuộc sống bình ổn yên tĩnh. Bên cạnh họ những “thương nhân chạy chợ” vất vả hơn nhiều. Vì kế mưu sinh họ phải tất tả nơi chợ búa ồn ào, đường xa dặm thẳm:

Đông hô tây hoán loạn thanh văn,
Hoàn hội mưu sinh phụ nữ quần.
Bạch mễ, thanh trà kiêm thục thử,
Phù Ninh, Phú Lễ hựu Yên Vân.
Trường giang, đoản cống cung triêu tịch,
Hạ thử, đông hàn quán cốt cân.
Tất hạ nhi tôn, đường thượng lão,
Huề lai quả bính vị ân cần.
(Thương nhân tẩu thị)

(Đây kêu, kia gọi nghe xao xác,
Chợ búa mưu sinh phận tảo tần.
Kê đậu, chè xanh cùng gạo trắng,
Phù Ninh, Phú Lễ lại Yên Vân.
Gần xa, gồng gánh lo hôm sớm,
Nóng lạnh đông hè quen bước chân.
Cha mẹ trên nhà, con dưới gối.
Bánh quà hoa trái mấy ân cần.
(Nhà buôn chạy chợ)

Những “cô hàng chạy chợ” là nhân vật mới mà Đặng Huy Trứ đưa vào thơ, mặc dù với Ngô Thì Ức (1709 - 1736) trong thơ đã có một “Bà già đi chợ chiều”, nhưng việc đi chợ của bà không mang tính chất công việc mưu sinh, bà đi chợ chỉ để mua những thứ cần dùng và có chút quà cho các cháu. Bà lão đường xa có mỏi nhưng phong thái vẫn an nhàn, còn các “cô gái chạy chợ”, nhân vật của Đặng Huy Trứ thì rõ ràng là trụ cột của gia đình, gánh nặng áo cơm đang đè lên vai họ. Dù vậy họ vẫn không một lời nặng nhẹ, dường như không kịp nghĩ đến bản thân mình mà mọi tình cảm, mọi nỗi ân cần đều dành cho “cha mẹ trên nhà, con dưới gối”. Họ sẽ là những người chị, những nhân vật “tiền thân” của các “cô hàng xén” chợ Huyện của Thạch Lam, Nguyễn Bính sau này.

Đặng Huy Trứ không miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của thế giới nhân vật nữ. Dù vậy những thiếu phụ và cả thiếu nữ trong thơ ông trên đây vẫn gợi lên cho người đọc một ấn tượng dễ chịu, một niềm tin đối với nhân tình thế thái. Dường như với những tính cách như thế, những thiếu phụ, đàn bà thôn dã ấy sẽ đem đến tiếng cười, niềm vui, sự ổn định cho gia đình và làm đẹp cho cuộc đời.

Thế nhưng, đấy chưa phải là toàn bộ thế giới nhân vật phái đẹp của Đặng Huy Trứ. Ông còn dành nhiều trân trọng và xót thương hơn cho những số phận hẩm hiu: người vú nuôi và những thân phận dở dang. Thực ra trong các thế kỷ trước đã có nhà thơ viết về người hầu gái. Bài Khốc thị nữ Trần Thị Lý Hà của Ngô Thì Sỹ là một bài thơ rất hay. Ông khai thác khía cạnh thương tâm: nỗi bất hạnh của phận hồng nhan. Đặng Huy Trứ lại khai thác ở khía cạnh khác: lòng vị tha, yêu thương con trẻ của một lớp người rất ít học nhưng tấm lòng rộng lớn - những người vú em. Những người đàn bà ấy làm thiên chức của người mẹ, suốt ngày bận bịu bế ãm trẻ đến nỗi “đầu tóc rối như cỏ bồng”. Chẳng cần phân biệt trai hay gái, chẳng cần để ý đến việc con mình hay con người, người vú em vẫn “dang đôi cánh” ấp ủ cho đứa bé hết ngày lại đêm. Đặng Huy Trứ đánh giá cao cử chỉ sâu nặng tình người ấy và ông những mong các bậc quan phụ mẫu tự coi là có tư tưởng “thân dân” biết lo cho “con đỏ” như thế.

Chùm thơ về những nhân vật phụ nữ của Đặng Huy Trứ khá phong phú. Số lượng bài viết về vợ cũng khá nhiều. ở đấy Đặng Huy Trứ không chỉ nói về tình và nghĩa, ông còn đề cập đến cả những vấn đề cụ thể và nhỏ nhặt trong cuộc sống gia đình. Ông nói đến chuyện chia xa, chuyện gạo châu củi quế mà người vợ phải toan lo, chuyện vay gạo gửi về cho vợ, chuyện vợ trở dạ lần bức tường mà đi... và cả công lao chăm con nuôi cháu giúp rể của mẹ vợ. Ngòi bút của Đặng Huy Trứ bay bổng lãng mạn. Ông đi vào những chi tiết cụ thể của cuộc đời thực, do đó tạo được cảm giác gần gũi và cảm thông trong người đọc. Tuy nhiên thâm trầm và giàu chất triết lý hơn cả là bài thơ ông viết về một “người gặp gỡ” cũ: Niên tiền giải cấu lai khất lân giả nhân khẩu chiếm tam thủ:

I
Bấm đốt, tình cờ gặp cố nhân,
Con côi, mẹ góa phận neo bần.
Duyên lành những tưởng do trời định,
Ngang trái đâu ngờ buộc chút thân.

II
Phận gái duyên ưa đã sớm chồng,
Mười lăm năm lẻ được trùng phùng.
Lại nghe nàng đã thành sương phụ,
Oanh sớm, hoa chiều thảy hóa không.

III
Mười sáu xuân ròng xa bến cũ,
Mày thanh gầy liễu, má phai đào.
“Hồng nhan bạc mệnh” từ bao thuở,
Không trách hồng nhan, trách má cao.(8)

Bài thơ này dường như khác bút pháp với những bài thơ đã dẫn. Đặng Huy Trứ có vẻ như trở lại cách viết truyền thống của thơ Đường - tượng trưng, ước lệ - nhưng lại rất thành công, là một bài đặc sắc trong chùm thơ cổ viết về đề tài “người cũ”.

Đề tài nông dân và phụ nữ đã xuất hiện rất sớm trong thơ ca cổ. Ngay từ đời Trần đã thấy những bóng áo tơi, trẻ mục đồng và cây sáo..., đến thế kỷ XV còn có thêm tiếng vắt trâu của anh thợ cày, đám trẻ con bắt cáy ven sông, đám dân chài mặc quần cộc kéo lưới. Sang thế kỷ XVIII - thế kỷ nông dân khởi nghĩa - người nông phu và phụ nữ càng được các nhà thơ chú ý hơn. Các nhà thơ phái Ngô gia và người cùng thời nói nhiều đến ý nghĩa to lớn của nghề nông, đã xây dựng những nhân vật lão nông, ông chài, vợ người Hồ, Lê Quý Đôn cũng đã họa được những nét lo âu của dân năm hạn... và đặc biệt Ninh Tốn đã nắm bắt được những giây phút bất chợt tạo nên hình ảnh diệu kỳ của người con gái (Thiếu nữ trên yên ngựa). Đặng Huy Trứ cũng góp những nhân vật của mình vào khu vực đề tài này. Có điều mặc dù trong mười thế kỷ các nhà thơ chủ yếu vẫn dùng thơ Đường luật nhưng cách miêu tả, khắc họa và cả quan niệm về vẻ đẹp cũng có những thay đổi. Bóng áo tơi trên đồng, chú bé mục đồng thổi sáo dắt trâu về trong chiều tà là những hình ảnh, điểm sáng trong bức tranh cuộc sống. Còn ở Đặng Huy Trứ họ là nguyên mẫu “người thật việc thật” đi vào tác phẩm. Họ được khắc họa dưới dạng những sự việc, con người, hành động cụ thể và trong nhiều trường hợp đạt được mức độ cá thể riêng. Chắc chắn không thể nói rằng vì điều đó mà thơ Đặng Huy Trứ tất yếu giàu tính thẩm mỹ hơn thơ các thi nhân tiền bối. Song đó là một đặc điểm quán xuyến, chủ yếu, là một đặc điểm góp phần làm nên vẻ đẹp riêng của thơ Đặng Huy Trứ.

CHÚ THÍCH:

(1) Nhóm tuyển dịch, giới thiệu Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm.

(2) Thơ dẫn trong bài này đều trích từ Đặng Huy Trứ – con người và tác phẩm; Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1990

(3) Bản dịch của Khương Hữu Dụng. Theo chúng tôi câu thứ hai bài Thấy ông lão vác than nên hiểu là: Mặt trời chiếu lên lưng

(4) Chuyện trả ơn: nguyên văn ế Tang. Đời Xuân Thu, Triệu Độn cày ruộng ở ế Tang, thấy Linh Nhiếp đói bèn cho ăn. Sau đó vua Linh Công mưu giết Độn. Bấy giờ Nhiếp làm vệ sĩ cho Linh Công, nhớ ơn cũ liền quay mũi giáo đỡ cho khởi chết. Độn hỏi vì sao, người ấy chỉ nói: “Ta là người đói ở Ế Tang” - Hỏi họ tên, chỗ ở đều không trả lời rồi bỏ đi.

(5) Vũ Đình Liên dịch

(6) ý của Nguyễn Khuyến trong bài Đối trướng phát khách

(7) Khương Hữu Dụng dịch

(8) Vì bài thơ dài nên chúng tôi lược phần phiên âm.

TB

NGHIÊN CỨU DIỄN BIẾN CHỮ NÔM THEO PHƯƠNG PHÁP HÌNH THỂ
(Tiếp theo)(1)

ĐẶNG ĐỨC
TRẦN XUÂN NGỌC LAN

Trong bài (1) chúng tôi đã nêu lên sự diễn biến của yếu tố âm phù và yếu tố nghĩa phù bên trong hình thể vuông của chữ Nôm. Đó là sự nghiên cứu trên phương diện động của hai yếu tố này. Bài sau đây sẽ nghiên cứu phương diện tĩnh. Đó là mô tả các kiểu sắp xếp bố trí của hai yếu tố âm phù và nghĩa phù trong một hình vuông. Chúng tôi gọi là các kiểu đồ án hình thể của chữ Nôm.

Theo hướng nghiên cứu này, chúng tôi cũng lấy yếu tố âm phù và nghĩa phù làm đơn vị cấu trúc cơ bản của chữ Nôm, nhưng vì đây là sự tiếp cận về phương diện cấu trúc hình thể, cho nên chúng tôi gọi âm phù là hình tố âm và nghĩa phù là hình tố nghĩa. Phân tích chữ Nôm từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX chúng tôi nhận thấy có 9 kiểu đồ án kiến trúc thường gặp sau đây:

Đồ án 1

Chữ thuộc đồ án này chỉ gồm một hình tố âm hoặc một hình tố nghĩa.

Ví dụ:

Vậy phải biết vua trước sinh thì có ba 巴 con trị thiên hạ (M.B14 tr.1b, d9)

Khúc khỉu làm chi trái hòe (QÂTT. Trần tình 8)

Người thiểu học khôn biết khôn xem (CNNÂ. Tựa )

Trời ban tối ước về đâu (QÂTT. Ngôn chí 13)

Chữ ba chỉ gồm một hình tố âm 巴 BA ( = đất Ba Thục)

Chữ trái gồm 巴 BA và 賴 Lại (= dựa) hợp lại để biểu thị âm trái, vì âm này xưa đọc là Blái. Tuy gồm hai chữ Hán, những theo cách phân tích này thì chỉ là một hình tố nghĩa.

Chữ trời gồm 天 THIÊN (= trời) và 上 THƯỢNG (= bên trên) hợp lại biểu thị nghĩa của từ trời. Tuy gồm hai chữ Hán, nhưng theo cách phân tích này thì chỉ là một hình tố nghĩa.

Có thể thấy các loại chữ giả tá âm, giả tá nghĩa, hội ý của cố học giả Đào Duy Anh đều thuộc đồ án 1.

Sau đây xin nêu ra một vài ví dụ:

群 còn 別 biết 昌 xương 特 được 典 đến 沒 một (con) trai trăng son sống 歌 ca 名 danh 雪 tuyết 花 hoa 客 khách.

Đồ án 2

Chữ thuộc đồ án này gồm hai hình tố âm và nghĩa hợp lại, hình tố âm ở trên, hình tố nghĩa ở dưới, hoặc ngược lại hình tố âm ở dưới hình tố nghĩa ở trên. Đây gọi là cấu trúc trên dưới. Ví dụ:

La ỷ dập dìu hàng chợ họp (QÂTT. Thuật hứng 10)

Thấy loạn thì hay đời Thuấn Nghiêu (QÂTT. Tự giới 8)

Ông thánh này bởi sửa được xác mình thì cả thật (M.B13. tr.33a, d5).

BẰNG cá bống trắng trên mình có văn (TĐTC. Trùng ngư loại. tr.777, d2).

Chữ chợ, hình tố âm 助 TRỢ (= trợ giúp) chuyển âm đầu TR ~ ch viết ở trên; Hình tố nghĩa 市 THị (= chợ) viết ở dưới.

Chữ thấy, hình tố âm 体 THỂ (= thân thể) chuyển vận Ê ~ ây / ay, chuyển thanh HỏI ~ sắc viết ở trên; Hình tố nghĩa 見 KIẾN (= thấy) viết ở dưới.

Chữ cả, hình tố âm 可 KHẢ (= khá) chuyển âm đầu KH ~ C viết ở dưới; Hình tố nghĩa 大 ĐẠI (= lớn) viết ở trên.

Chữ trắng, hình tố âm 壯 TRÁNG (= cường tráng) chuyển vận ANG ~ ăng viết ở dưới; Hình tố nghĩa 白 BẠCH (= trắng) viết ở trên.

Đồ án 2 có hai biến thể là . Ví dụ:

Cắp tay xem trị bốn bên thuận hòa (CNNÂ. Tựa)

Năm nay tuổi đã ngoài mươi (QÂTT. Tự thuật 9)

Thuốc thang suốt một ngày thâu (Bản C. 1001)

ĐAM ĐAM: ngó tiện lòng chăm xa dài (TĐTC. Nhân sự loại. Thượng. tr.355, d1)

Chữ bốn, hình tố âm 本 BỐN (= gốc) chuyển thanh HỎI ~ sắc viết ở dưới; Hình tố nghĩa 四 Tứ (= bốn) viết ở trên.

Chữ tư, hình tố âm 司 TƯ (= chủ trì) viết ở dưới; Hình tố nghĩa 四 Tứ (= bốn) viết ở trên.

Chữ thuốc, hình tố âm 束 THÚC (= bó buộc) chuyển vận UC ~ uôc viết ở dưới; Hình tố nghĩa vốn xuất phát từ chữ 藥 DƯỢC (= thuốc) giảm nét(2) viết ở trên.

Chữ lòng, hình tố âm 弄 LỘNG (= trào lộng) chuyển vận ÔNG ~ ong (dù lọng ) , chuyển thanh nặng ~ huyền, viết ở trên; Hình tố nghĩa 心 TÂM (= lòng) viết ở dưới.

Có thể thấy loại chữ hình thanh lấy bộ TRÚC bộ THẢO v.v. làm nghĩa phù theo quan điểm của một số học giả đều thuộc loại biến thể này.

Sau đây xin nêu thêm một số ví dụ của đồ án 2:

thác ngồi trứng đủ trăm núi vua trọn đỏ máu thơm 蘿 lá đũa nón nơm mờ hôm đắng e (ngại) (cái) vịm

Đồ án 3

Chữ thuộc đồ án này gồm hai hình tố âm và nghĩa hợp thành, hình tố âm viết bên trái hình tố nghĩa hoặc ngược lại. Đây gọi là cấu trúc phải trái. Ví dụ:

Ông thánh Bảo Lộc đã già cả một trăm mười ba tuổi (M.B13 tr.62b, d2)

Tài lệch lạc nhiều nên kém bạn (QÂTT. Ngôn chí 7)

Ôm bà mà giữ ngồi chờ năm canh (LC. c840)

Canh khuya thân gái dặm trường (Bản A: 2031)

Chữ già, hình tố âm 茶 TRà (= chè) chuyển thanh biểu thị âm tra hình thức cổ của già viết ở bên trái; Hình tố nghĩa 老 LãO (= già) viết ở bên phải.

Chữ nên, hình tố âm 年 NIÊN (= năm) chuyển vận IÊN ~ ên viết ở bên trái; Hình tố nghĩa 成 THÀNH (= nên) viết ở bên phải.

Chữ ngồi, hình tố âm 外 NGOẠI (= ngoài) chuyển âm Nôm ngoài ~ ngồi, chứ không phải từ âm Hán Việt NGOẠI, viết ở bên phải; Hình tố nghĩa 坐 TỌA (= ngồi) viết ở bên trái.

Chữ gái, hình tố âm 丐 CÁI (= ăn mày) chuyển âm đầu C ~ g viết ở bên phải; Hình tố nghĩa 女 Nữ (= gái) viết ở bên trái.

Đồ án 3 có 2 biến thể là Ví dụ:

May thuê viết mướn, kiếm ăn lần hồi (Bản A: 2762)

PHÙNG: may KIẾP: vá, BÀN: khoan, BẠN: ràng (NSL. Trung, tr.401, d1).

THÍCH: chim tựa quạ lông màu trắng xanh (CTL. tr.729, d3)

BẢO: thành nhỏ, Hạ: nhà to (KDL. Thượng, tr.544, d5)

Chữ may, hình tố âm 枚 MAI (= thẻ) chuyển vận AI ~ ay viết bên phải; Hình tố nghĩa 糸 xuất phát từ chữ 縫 PHÙNG (= may) giảm nét(3) viết ở bên trái.

Chữ may, hình tố âm 埋 (= chôn) chuyển vận AI ~ ay viết bên phải; Hình tố nghĩa 糸 cũng xuất phát từ chữ 縫 như trên.

Chữ quạ, hình tố âm 過 QUA (= qua lại) chuyển thanh KHÔNG ~ nặng, viết ở bên trái; Hình tố nghĩa 鳥 xuất phát từ chữ 鴉 NHA (= quạ) giảm nét, viết ở bên phải.

Chữ to, hình tố âm 蘇 TÔ (= rau tía tô) chuyển vận Ô ~ o, viết bên trái; Hình tố nghĩa 大 Đại (= to, lớn) viết ở bên phải.

Có thể thấy loại chữ hình thanh lấy bộ 糸 TY, 木 MộC, TÂM, 才 TÀI XÓC v.v. làm nghĩa phù theo quan điểm của một số học giả trước đây đều thuộc loại biến thể này.

Sau đây xin nêu thêm một số ví dụ thuộc đồ án 3:

tên mắt lông sao nay năm lớn nửa ra gái đi dày mũi mình đuôi vắn mừng vui vớt (võng) dá trăm trống chửa bảy ngài (chim) sẻ.

Đồ án 4

Chữ thuộc đồ án này cũng gồm hai hình tố âm và nghĩa. Hình tố âm bao bên trái bên trên và bên phải hình tố nghĩa hoặc ngược lại hình tố nghĩa là hình tố bao. Gọi là cấu trúc bao trái bên phải. Ví dụ:

Muôn đời hưởng lộc, vạn dân thái bình (CN. Tựa)

Cảm ân nở phụ muôn đời chúa (QÂTT. Tự giới 39)

Đùn đùn bóng rợp cửa ba công (QÂTT. Hòe)

SẤM: ngựa trong cửa bước ra (CTL. tr.767, d1)

Liễu yếu xanh mần bạn với mai (K.SG 1971)

Chữ muôn ở CN và QÂTT, hình tố âm đều là 門 MÔN (= cửa) chuyển vận ÔN ~ uôn bao trái trên và phải hình tố nghĩa. Hình tố nghĩa là 万 và dạng phức thể của nó là 萬 VẠN (= muôn) được bao.

Chữ cửa của QÂTT và CTL, hình tố nghĩa 門 MÔN (= cửa) bao trái trên và phải hình tố âm. Hình tố âm và dạng phức thể là 舉 Cử (= nâng lên) chuyển vận Ư ~ ưa, được bao.

Chữ mần, hình tố âm 門 MÔN (= cửa) chuyển vận ÔN ~ ân, chuyển thanh, bao trái trên phải. Hình tố nghĩa Nôm (= làm) được bao.

Đồ án 4 có một biến thể

Ví dụ: ra chồng cửa hang

Đồ án 5

Đây cũng là cấu trúc bao nhưng ngược hướng với đồ án 4. Hình tố âm bao trái dưới và phải hình tố nghĩa. Kiểu đồ án này rất ít gặp. Cho đến nay mới gặp 1 chữ viết theo kiểu đồ án này trong tác phẩm LVT. Ví dụ:

Ngàn trùng non nước chín chiều ruột đau (LVT. tr.31, c572)

Non xanh nước biết vui vầy (LVT. tr.33, c617)

Chữ non, hình tố âm 嫩 là hình tố âm Nôm. Đó là chữ non (= trẻ) được mượn để viết non (núi). Hình tố âm này bao trái dưới và phải hình tố nghĩa  SƠN (= núi).

Đồ án 6

Đây cũng là cấu trúc bao gồm hai hình tố âm và nghĩa. Hình tố âm bao bên trên, bên trái và bên dưới hình tố nghĩa hoặc ngược lại hình tố nghĩa là hình tố bao. Đây gọi là cấu trúc bao trên trái dưới. Ví dụ:

KIẾT: chó vện Quý: cho hùm (CTL. tr.745, d1)

Cù Lộ: ngả tư, KHANG TRANG: ngả sáu (CNNÂ. ĐLB)

Vua còn đường bệ ngôi vàng (TKCT, c893)

Chữ vện, hình tố âm 院 VIỆN (= vườn nhà) chuyển vận IÊN ~ ÊN bao trên trái và dưới hình tố nghĩa 文 VĂN (= hoa văn).

Chữ sáu, hình tố âm xuất phát từ chữ 老 LÃO (= già) giảm nét làm hình tố bao. Hình tố nghĩa 六 LỤC (= sáu) được bao.

Chữ ngôi, hình tố âm 外 là chữ Nôm ngồi chuyển thanh ngồi ~ ngôi. Phần còn lại 庄 là hình tố nghĩa. Có thể dễ dàng nhận ra đây vốn là chữ 座 TÒA (= ngôi vị) giảm nét.

Đồ án 7

Chữ thuộc đồ án này gồm hai hình tố âm và nghĩa. Hình tố âm bao bên phải và bên trên hình tố nghĩa hoặc ngược lại hình tố nghĩa bao bên phải và bên trên hình tố âm - gọi là kiểu cấu trúc bao phải trên. Ví dụ:

Giao đàn là đàn vua giao (CNNÂ; ĐLB)

Vua ABAGARÔ gửi thư cho đức chúa Giê Su (M.B1, tr.15, d6)

Có linh thì hưởng ấy mà cùng con (TKCT, c600 )

Chở che đùm bọc thiếu chi (Bản C 3185)

Chữ vua, hình tố nghĩa vốn xuất phát từ chữ 司 TƯ (= chủ trì ) giảm nét bao phải trên hình tố âm 布 Bố (= vải). Bố là từ cổ của Vua.

Chữ con, so sánh với những chữ con thường gặp 昆, có thể nhận ra hình tố nghĩa là 子 Tử ( = con ); Hình tố âm là 昆 CÔN (= anh ) chuyển vận ÔN ~ on giảm nét bao phải và trên hình tố nghĩa

Chữ chở, có thể nhận thấy ngay hình tố âm là 阻 TRở (= cản trở ) chuyển âm đầu TR ~ ch , phần còn lại là hình tố nghĩa, nhưng đã bị giảm nét. Nguyên chữ ấy là 載 Tái (= PHÚ: che, TÁI: chở, LƯU: trôi, MÃN: đầy (KDL. tr.233, d3) giảm nét bao phải và trên hình tố âm.

Đồ án 8

Chữ thuộc đồ án này cũng gồm hai hình tố âm và nghĩa. Hình tố âm bao bên trái và bên dưới hình tố nghĩa hoặc ngược lại hình tố nghĩa bao hình tố âm gọi là cấu trúc bao trái dưới. Ví dụ:

Nghe người đồn trên chốn sơn lâm có quỷ (TSH)

Có đâu ở thấp mà chồm lên cao (PT)

Tuổi tôi mới có mười ba (LC)

Chữ trên, hình tố nghĩa là 上 THƯỢNG (= trên); Hình tố âm vốn xuất phát từ chữ 連 LIÊN (= liên kết) giảm nét(4), chuyển âm đầu và vận L ~ tr, IÊH ~ ên.

Chữ lên, hình tố nghĩa 升 THĂNG (= lên); Hình tố âm vốn xuất phát từ chữ 連 LIÊN (= liên kết) giảm nét(5) chuyển vận IÊN ~ ên.

Chữ mười, hình tố nghĩa 十 THẬP (= mười), hình tố âm vốn xuất phát từ chữ 邁 MẠI (= già) giảm nét(6), chuyển vận chuyển thanh, MẠI ~ mời, mời ~ mười.

Đồ án 8 có các biến thể kiểu như:

Trẻ từng vả đấng khoa danh (CNNÂ. Tựa)

Vả trong hai ả tiểu Kiều (NĐM tờ 50)

Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế (QÂTT. Trần tình 4)

THỨC: là mắt ngủ mà lòng không quên (NSL. tr.357, d1)

Vắt chân lên cổ mà chạy (OG tr.105)

Chữ vả, hình tố âm 尾 VĨ (= đuôi) chuyển vận i ~ a, chuyển thanh ngã ~ hỏi, đều là thượng thanh, hình tố âm bao trái dưới hình tố nghĩa 且 THẢ (= vả lại).

Chữ mươi, hình tố âm 邁 MẠI (= già) chuyển vận chuyển thanh như đã nói ở trên. Hình tố nghĩa 十 THẬP (= mười) được bao trái và dưới.

Chữ quên, hình tố âm là chữ QUYÊN (= tức giận) chuyển vận UYÊN ~ ên.

Hình tố nghĩa 亡 vốn xuất phát từ chữ 忘 VONG (= quên) giảm nét, là hình tố được bao.

Chữ lên, hình tố âm 連 LIÊN (= liên kết) chuyển vận IÊN ~ ên bao hình tố nghĩa 升 THĂNG (= lên).

Sau đây là một số ví dụ thuộc đồ án 8:

chơi gặp đuổi sang chở(7) ngôi gió ba vào thói nhiều đêm nhỏ lưỡi mày lên trên vện mười mây trên tóc tóc.

Đồ án 9

Những chữ thuộc đồ án này đều gồm hình tố âm và hình tố nghĩa. Hình tố âm bao bên trái và trên hình tố nghĩa, hoặc ngược lại hình tố nghĩa bao hình tố âm. Đây gọi là cấu trúc bao trái trên.

Ví dụ: KHỐ: kho TÁO: bếp, LÔ: lo, ĐÌNH: sân (KDL, tr.539, d3)

Ra đi chưa đặng mấy ngày lại đau (LVT. 662)

CẦN: nhà nhỏ, CẦU mái tà (KDL, tr.544, d2)

Chữ kho, hình tố âm 枯 KHÔ (= khô) chuyển vận Ô ~ O; Hình tố nghĩa 广 xuất phát từ chữ 庫 KHỐ (= kho) giảm nét, bao trái trên.

Chữ đau, hình tố âm 刀 ĐAO (= dao) chuyển vận AO ~ au; Hình tố nghĩa 疒 xuất phát từ chữ 疾 TẬT (= bịnh) hoặc 病 BỊNH (= ốm đau) giảm nét bao trái trên.

Chữ mái, hình tố âm 買 MÃI (= mua) chuyển thanh NGÃ ~ sắc; Hình tố nghĩa xuất phát từ chữ CẦU (= mái) giảm nét, bao trái trên.

Đồ án 9 có các biến thể như: , Ví dụ:

Có tài cậy chi tài (K.3247)

Hà Đông chốn ấy để dưỡng thân (TKCT. 1084).

Về nam mãi mãi ra tay thước IMG src="duc4898.gif" width="33" height="30" border="0">

(BKCG 7)

Bảy tháng cưu lòng chửa (PTĐB, tr.10, d3)

Mồng mười: bảy anh em là con bà thánh PHÊ - LI - XI - TA tử vì đạo (M.B13, tr.18b, d8)

CÔN TÔN bảy đời cháu hiền (CN. Nhân luân, c31)

Quả mai ba bảy đang vừa (Bản C: 3075)

Bao nhiêu mơi nhọc bởi nơi sinh (QÂTT. Tự thán 26)

Nàng gặp ta duyên bởi thêm duyên (K. SG 1971)

Chữ mà, hình tố âm 麻 MA (= gai) chuyển thanh không ~ huyền; Hình tố nghĩa 而 NHI (= bởi, do)

Chữ thước, hình tố âm 托 THÁC (= gởi) chuyển vận AC ~ ươc bao trái trên của hình tố nghĩa 尺 XÍCH (= thước).

Chữ bảy, hình tố nghĩa 七 THẤT (= bảy). Phần còn lại là hình tố âm. Đây chính là chữ 擺 BÃI (= mở ra) giảm nét, chuyển vận AI ~ ay chuyển thanh NGã ~ hỏi. Đây là hình tố bao trái trên.

Chữ bảy, hình tố âm 罢 BÃI (= thôi, nghỉ) chuyển vận AI ~ ay chuyển thanh NGã ~ hỏi, chuyển dịch vị trí để bao trái trên hình tố nghĩa 七 THấT (= bảy).

Chữ bảy, hình tố nghĩa 七 THấT (= bảy), phần còn lại là hình tố âm. Đây chính là chữ 罷 BÃI (= thôi, nghỉ) giảm nét và chuyển dịch vị trí để bao trái trên hình tố nghĩa 七 THẤT (= bảy).

Chữ bởi, hình tố âm 罢 BÃI (= thôi, nghỉ) chuyển vận AI ~ ay chuyển thanh NGÃ ~ hỏi, chuyển dịch vị trí để bao trái trên hình tố nghĩa 由 DO (= bởi, vì).

Sau đây nêu lên một số ví dụ thuộc đồ án 9 :

mỏi vết ngứa ốm gầy hủi v.v.

Với quá trình diễn biến về hình thể như đã chứng minh ở các bài trước có thể cho phép chúng tôi giả thiết rằng, đây là vết tích của những hình tố nghĩa cụ thể 疲 BÌ (= mỏi mệt), 痕 NGẤN (= dấu vết), 痒 TƯỜNG (= ngứa), 瘠 TÍCH (= ốm), 瘐 SẤU (= gầy), 癩 LẠI (= hủi) giảm nét. Nhìn vấn đề hình thành chữ Nôm bằng quan niệm như vậy phù hợp với lý luận cơ bản của văn tự học hơn là xuất phát từ bộ thủ, một ký hiệu biểu thị một khái niệm chung chung mơ hồ.

Cho đến nay chúng tôi mới chỉ tìm thấy trong chữ Nôm có 9 kiểu đồ án và các biến thể như trên. Còn trong chữ Hán, các nhà văn tự học cũng đã nghiên cứu và đưa ra 10 đồ án cho chữ Hán, đó là:

1. Cấu trúc một chữ đơn 乙 ất

2. Cấu trúc trên dưới 想 tưởng

3. Cấu trúc phải trái 村 thôn

4. Cấu trúc bao trái trên phải 网 võng

5. Cấu trúc bao trái dưới phải 凶 hung

6. Cấu trúc trên trái dưới 區 khu

7. Cấu trúc trên trái 庆 khánh

8. Cấu trúc trên phải 句 cú

9. Cấu trúc trái dưới 廷 đình

10. Cấu trúc bao quanh 國 quốc

So sánh thì có thể thấy chữ Nôm không có kiểu cấu trúc bao quanh. Tuy nhiên đây chưa phải là kết luận cuối cùng, cần phải tiếp xúc thêm nhiều tư liệu hơn nữa thì mới khẳng định được điều này.

BẢNG CHỮ VIÊT TẮT

M.B14: Gorolamo Maiorica Các thánh truyện

QÂTT: Quốc âm thi tập - Nguyễn Năng Tỉnh, Dương Bá Cung, Ngô Thê Vinh sưu tập (Minh Mạng)

CNNÂ: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa trùng san, Cảnh Hưng 22.

M.B13: Maiorica Dọn mình trước chúa Co - Mo – Nhong

TĐTC: Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca

Bản C: Thúy Kiều truyện tường chú. Chiêm Vân thị

LC: Lý công tân truyện - Thiên Bửu lâu tàng bản

Bản A: Kim Vân Kiều tân truyện - Duy Minh thị trùng san - Kỷ Mão

NSL: Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Nhân sự loại

CTL: Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Cầm thú loại

K: Kiều, Sài Gòn 1971

LVT: Lục Vân Tiên truyện - Duy Minh thị hiệu đính

CNNÂ.ĐLB: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Địa lý bộ

TKCT: Thoại Khanh Châu Tuấn - Bửu Hoa Cát tàng bản

M.B1: Maiorica. Đức chúa Giê Su

TSH: Tiểu Sơn Hậu - Bửu Hoa Cát tàng bản

PT: Phan Trần truyện. Tự Đức Đinh Mão (1867)

NĐM: Nhị Độ Mai - Phúc Văn Đường tàng bản

OG: HENRI OGER

BKCG: QÂTT Bảo kính cảnh giới

PTĐB: Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh

~ : Chuyển đổi.

CHÚ THÍCH

(1) Tạp chí Hán Nôm số 1(34)-1998 tr.7

(2) Xem phần chứng minh giảm nét ở bài (1).

(3) Xem phần chứng minh quá trình giảm nét ở bài “Chữ Nôm hình thanh một thách đố đối với các học giả” Tạp chí Ngôn ngữ 1993 số 2.

(4), (5), (6) Phần chứng minh giảm nét đã viết ở bài (1), tài liệu đã dẫn.

(7) Tất cả các bộ ở đây đều có thể tìm thấy và chứng minh là sự giảm nét của hình tố nghĩa. Ví dụ : chơi 遊 Du; gặp 遇 Ngộ; đuổi 追 truy; sau 過 qua; chở 運 vận.

TB

HÀNH TRÌNH “ĐI SỨ” QUA MỘT SỐ
TƯ LIỆU HÁN NÔM

ĐỖ THỊ HẢO

Thời xưa, trong đạo trị nước, hòa hiếu với các nước láng giềng là việc lớn, hệ trọng, không thể xem thường. Thư tịch cổ như kinh Xuân Thu, sách Mạnh Tử, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,... đều nhấn mạnh “nghĩa tu hiếu”, “đạo giao lân” là phải đem lòng thành thực, tin cậy mà kết giao với nhau.

Trở lại lịch sử Việt Nam, từ niên hiệu Thái Bình 3 (972) nhà Đinh tương đương với niên hiệu Khai Bảo 5, đời Tống Thái Tổ, Đinh Tiên Hoàng đã sai Nam Việt Vương Đinh Liễn đi sứ nước Tống. Năm sau, sứ thần trở về, vua Tống sai sứ đem sắc sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận Vương. Trong lời chế, vua Tống có ý khen: nhà Đinh đời đời là họ đàn anh, thống nhất đất nước, giữ yên được bờ cõi, nên không chỉ phong cho cha mà còn phong cho Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư Tĩnh hải quân, Tiết độ sứ An Nam đô hộ(1). Có thể nói, trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc ở bất cứ triều đại nào, đời vua nào, Việt Nam cũng cử những đoàn sứ giả sang Trung Quốc và tiếp những đoàn sứ thần của Trung Quốc vào Việt Nam. Thí dụ, năm 1010 Lê Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang báo tin nhà Lý lên ngôi ; Năm 1024 Trương Dĩnh và Vương Duy Chinh nhà Tống sang điếu tang Lý Thái Tổ; Năm 1261 Trần Phụng Công, Nguyễn Thâu, Nguyễn Diễn sang nhà Nguyên thông hiếu; Năm 1295 sứ Nguyên là Tiêu Thái Đăng sang ta, Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo theo Thái Đăng về Nguyên xin kinh Đại Tạng; Năm 1385 nhà Minh cho sứ sang đòi 20 tăng nhân; Năm 1386 nhà Minh sai Lâm Bột sang đòi cau, nhãn, mít, Phạm Đình được cử đem các thứ đó sang cống; Năm 1431 Lê Nhữ Lâm, Hà Lất, Lê Bính sang minh cầu phong; vua Minh cử Chương Xương, Từ Kỳ sang sách phong, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Tông Chí sang tạ ơn, cống 5 vạn lạng: sách “Bang giao hảo thoại”(2) của Ngô Thì Nhậm. Có nhiều bài biểu đề cập đến các sự kiện như: Năm 1790 Phạm Công Trị (đóng giả Quang Trung) cùng Ngô Văn Sở, Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn sang mừng thọ Càn Long; Năm 1792 Trần Quang Diệu sang cầu hôn cho Quang Trung và đòi đất Lưỡng Quảng; Năm1793 Ngô Thì Nhậm sang cầu phong cho Cảnh Thịnh.

Lịch sử bang giao của Việt Nam từ thế kỷ XIX trở về trước chủ yếu là lịch sử bang giao Việt - Hoa. Chấp nhận “Thiên triều” để giữ gìn sự ổn định, đảm bảo thực chất nền độc lập là đường lối khôn khéo của các triều đại phong kiến Việt Nam. Vì vậy, nước ta đã giữ đúng lệ triều cống, cứ ba năm hoặc sáu năm một lần. Các đoàn sứ bộ Việt Nam được cử đi có thể là cầu phong, chúc mừng, báo tang, viếng tang, đáp lễ, hoặc bàn bạc những vấn đề mắc mớ, ... Ngược lại, các triều vua Trung Hoa cũng cử các đoàn sứ bộ sang ta, tỏ ý công nhận ta là một phiên thần, ở vị trí phên dậu, phải thần phục họ.

Về hành trình đi xứ, từ Trung Hoa sang ta, đường thủy chủ yếu từ Quảng Đông qua các cửa Bạch Đằng, cửa Cấm, cửa Đồ Sơn, cửa Thái Bình... Đường bộ đi từ tỉnh Vân Nam, dọc theo sông Lô hoặc sông Thao về ngã ba Bạch Hạc. Song, con đường chính các sứ bộ hay đi là xuất phát từ Quảng Tây. ở đây có thể khởi hành từ Tư Minh hoặc Long Châu, nhưng lối đi tiện nhất vẫn là Bằng Tường. Mục “Sứ sự” trong sách “Lạng Sơn Đoàn thành đồ”(3) của Nguyễn Nghiễm (thân phụ đại thi hào Nguyễn Du đã phác họa một hành trình đi sứ khá cụ thể: “Từ Bằng Tường có cửa Nam Quan, xuôi qua trạm Pha Lũy (Đồng Đăng), đến trấn lỵ Lạng Sơn, ải Quyết Lý (Ôn Châu), Ải Giáp Khẩu (Chi Lăng), về Thị Cầu để tới Thăng Long. Đến trấn lỵ Lạng Sơn, các đoàn sứ bộ dừng lại ít nhất một ngày để nghỉ ngơi rồi mới đi tiếp”. Vì vậy, Lạng Sơn nghiễm nhiên trở thành nơi duy nhất nghênh tiếp, tiễn tống các đoàn sứ giả ở nước ta. Có nhiều lần, các sứ bộ chỉ dừng lại ở trấn thành Lạng Sơn để giải quyết công việc chứ không về Thăng Long hoặc sang Trung Quốc. Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí”(4) phần “Bang giao chí” đã nêu bật vị trí của Lạng Sơn “là nơi đón tiếp các đoàn sứ qua, thể diện của một nước trọng hay khinh quan hệ đến việc này”.

Sách Lạng Sơn Đoàn thành đồ cũng miêu tả một cách khá sinh động về tổ chức cùng những trang bị để đón tiếp các đoàn sứ giả đương thời. Cả xứ Lạng lúc đó phải đặt 4 trạm để tiếp đãi, đưa đón các sứ giả. Bốn trạm ấy là Pha Lũy, Mai Pha, Nhân Lý, và Chi Lăng. Mỗi trạm được trang bị như sau:

“- Hai khu nhà công quán gồm 12 dãy, mỗi dãy 5 gian 2 chái.

- Bốn dãy cổng chào (nghi viên) mỗi dãy 3 gian.

- Bốn dãy tàu ngựa, mỗi dãy 3 gian.

Nhà công quán được rào kín xung quanh.

Đồ vật ở trạm gồm có:

- 12 chiếc giường, 4 chiếc ghế ngồi

- 4 chiếc bàn, 40 tấm phên nứa

- Mâm lớn 20 chiếc, khay chè 20 chiếc

- Nồi đồng lớn 40 cái, nồi đồng nhỡ 40 cái

- Bát lớn 200 cái, bát nhỡ 200 cái

- Đĩa 200 cái, chén uống nước 200 cái

- Chén uống rượu 200 cái, chiếu 40 đôi

- Chậu rửa mặt 16 cái, 40 cây đèn đĩa

- Nến 20 cân, dầu, bấc đủ dùng

- Đũa 400 đôi, than củi 4 gánh

- Thực phẩm cung đốn ở các trạm

- Lợn 4 con, ngỗng 4 con, gà 2 con, vịt 2 con

- Thịt lợn 300 cân, gạo 700 cân, rượu 8 vò

- Dầu 20 cân, muối 20 cân, dấm 20 cân

- Trứng gà 200 quả, chè 30 cân, gừng 10 cân

- Hành tỏi 10 cân, cỏ ngựa 40 gánh, thóc cho ngựa ăn 100 cân

Lễ vật cho khâm sứ qua cửa quan:

- Trâu 1 con, dê 3 con, lợn 2 con, ngỗng 5 con, vịt 10 con, gà 10 con, chim bồ câu 20 con, rượu 20 vò

Nghi trượng đón tiếp sứ giả:

- Long đình sơn son thiếp vàng 2 cỗ và đòn sơn son 4 chiếc

- Lụa nhuộm vàng 2 tấm (mỗi tấm 65 thước ta)

- Hương án sơn son thiếp vàng 2 chiếc, cùng với độc bình, giá gương và 4 chiếc đòn sơn son

- án để cờ tiết sơn thếp vàng 1 chiếc và 2 chiếc đòn sơn son

- Tàn vàng 14 chiếc, lư hương bằng đồng 2 chiếc, hèo sơn son 300 chiếc, ghế ngồi 4 chiếc, màn lụa vàng tẩm dầu 2 chiếc, chiếu cói 12 đôi cạp đen...”.

Trên đây là những quy định thời Hậu Lê. Những triều đại trước như Lý,Trần và sau như nhà Nguyễn, do hạn chế về tài liệu, nên chưa thể kê cứu được chi tiết, tỉ mỉ.

Để có một ý niệm cụ thể hơn về việc đón tiếp một đoàn sứ bộ, chúng ta hãy tham khảo tập Sứ giao kỷ sự của Chu Xán, một vị phó sứ của sứ bộ nhà Thanh. Đoàn sứ giả này sang Việt Nam vào năm 1683. Đoàn chia thành 2 nhóm:

- Nhóm thứ nhất sang viếng vua Lê Gia Tông. Sứ bộ này do ông Ô Hắc làm chánh sứ, Chu Xán làm phó sứ.

- Nhóm thứ hai sang phong vương cho vua Lê Hy Tông, có đem theo sắc phong và ấn tín. Sứ bộ này do Minh Đổ làm chánh và Tôn Trác làm phó.

Trên đường đi, Tôn Trác không may bị bệnh chết ở Quảng Tây, vì thế hai nhóm sáp nhập làm một đoàn do Ô Hắc làm chánh sứ. Khi vào đến cửa Nam Quan, phái đoàn có tới 227 người, cùng một chánh sứ và hai phó sứ. Có 3 viên thông sự làm công việc phiên dịch. Theo quy định, sứ bộ đến Thăng Long phải qua 10 trạm, mỗi trạm dài chừng 20 cây số, ngày đi, đêm nghỉ để lấy sức. Trong bản tấu của chánh sứ Ô Hắc với vua Khang Hy nhà Thanh về chuyến đi sứ lần này có nói rõ: Ngày 28 tháng 9 năm Khang Hy thứ 22 (1683), sứ bộ Trung Hoa đến cửa Nam Lăng thuộc Long Châu tỉnh Quảng Tây. Đoàn Việt Nam đã đến đó trước để đón. Sáng sớm bày long đình tại đài Chiêu Đức, ba vị Ô Hắc, Minh Đổ, Chu Xán đứng đợi. Hai viên quan người Trung Quốc là Vương Lai Tân và Ngô Liên dẫn đoàn tiếp sứ Việt Nam gồm Tống Nho, Vũ Duy Khuông, Nguyễn Đình Trụ, ... đến gặp mặt, làm lễ. Tiếp đó sứ bộ Trung Quốc lệnh cho Tri phủ Tư Minh, Long Châu và Bằng Tường kiểm tra lại xe ngựa, hành lý (kể cả các nhân viên xem có ai mang hàng cấm). Sau đó mở cửa quan cho phái đoàn vào Đồng Đăng. Phía Việt Nam đem 12 thớt voi, 30 người lính hộ vệ dọc đường. Hôm sau đi hết 30 dặm đến nghỉ tại phủ Lạng Sơn. Ngày mùng 1 tháng 10 sứ bộ lưu lại Đoàn Thành một ngày. Trưởng đoàn Tống Nho và Tri phủ Trường Khánh (tức Lạng Sơn) là Vi Đức Thắng theo phép tắc ra tiếp đãi sứ Thanh. Đồng thời yết thị sứ “Thiên triều” theo lệnh vua, quý mến dân ở xa, không dám làm những điều càn rỡ, dân chúng chớ kinh sợ. Sang ngày mùng 2 phái đoàn đi 60 dặm đến trại Nhân Lý. Mùng 3 đi 30 dặm đến Quỷ Môn Quan dừng lại làm lễ tế Mã Viện rồi đi tiếp đến cửa quan Chi Lăng. Mùng 4 sứ bộ đi tiếp 40 dặm đến trạm Tiên Lệ - địa đầu đất Kinh Bắc. Đến đây, trưởng đoàn Tống Nho tiếp tục trách nhiệm hộ tống sứ bộ nhà Thanh tới Thăng Long.

Đón tiếp sứ bộ nước ngoài thì như vậy, còn sứ bộ của ta đi Trung Quốc, trước khi phái đoàn dời Thăng Long: “Trấn lỵ Lạng Sơn phải cử người mang công văn sang phủ Thái Bình (Trung Quốc) báo ngày giờ xin mở cửa quan; tiếp đó cho lính về các địa phương trong trấn thu nhận các đồ cung ứng (đã được phân bổ) lấy của cải trong kho, chuẩn bị lễ vật để sứ bộ đến yết tại các đền miếu từ Chi Lăng đến Đồng Đăng. Ngày đầu tiên sứ bộ đến Lạng Sơn, các quan Bố chánh, án sát, Tri phủ phải khăn áo chỉnh tề ra đón tiếp. Sau đó, tất cả mặc triều phục đến hành cung trong thành làm lễ Cung thỉnh thánh an. Trưởng đoàn sứ bộ tuyên đọc: An ! (nghĩa là sức khỏe nhà vua tốt), các quan trấn đều cúi lạy 5 lạy. Đây là lễ mừng, công việc xong xuôi, mọi người ra công đường để nghe trấn quan trình bày những việc phải tiếp tục tiến hành. Ngày sứ bộ ra cửa quan, trấn lỵ đều phải có các quan đi theo đến làm lễ tại đài Khiêm Đức (cửa Nam Quan). Lễ xong đem cống vật cho nhà Thanh chứng kiến, đủ số thì phía Trung Quốc đóng cửa quan, trấn quan Lạng Sơn lui về, sứ bộ ta lên đường tới kinh đô phương Bắc.”(5)

Thông thường, việc đưa đón sứ thần diễn ra như vậy. Song có những trường hợp vua nước Nam phải thân hành đến cửa quan. Đó là vào khoảng năm 1596, Lê Thế Tông phải “ngự giá” đến Lạng Sơn để quan lại bên Quảng Tây nhận mặt, công nhận đúng là dòng dõi nhà Lê. Tháng Chạp năm 1596 vua Lê đến cửa quan, sứ nhà Minh thất hẹn không tới. Thực ra chúng sách nhiễu vàng bạc, nhưng thấy ta đưa ít nên lừng khừng. Tháng 3 năm sau, Thế Tông lại đến lần nữa. Lần này đi theo vua có hàng chục tả hữu Đô đốc, voi và 5 vạn quân lính, rầm rập kéo theo đến Nam Quan hội đàm với Tả giang tuần đạo án sát nhà Minh là Trần Đôn Lâm cùng các quan phủ Tư Minh, Thái Bình, Long Châu, Bằng Tường. Cuộc gặp diễn ra từ ngày mùng 10 đến 20 tháng 4 năm Đinh Dậu (1597), tương đương với niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh năm thứ 2. Có lẽ đây là một cuộc hội đàm to lớn và rầm rộ nhất trong lịch sử bang giao của Việt Nam xưa.

CHÚ THÍCH

1. Đại Việt sử ký toàn thư. A.3 Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm

2. Bang giao hảo thoại. A.117/7 Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm

3. Lạng Sơn Đoàn thành đồ. A.1320 Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm

4. Lịch triều hiến chương loại chí. A.1551 - Q.37, 38, 39. Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.

5. Lạng Sơn Đoàn thành đồ sđd.

TB

VỀ QUÁ TRÌNH LƯU TRUYỀN CÁC LOẠI VĂN BẢN LĨNH NAM CHÍCH QUÁI

NGUYỄN THỊ OANH

Theo kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, sự ra đời của một số tác phẩm giai đoạn từ thế kỉ X - khi nước nhà độc lập cho đến thế kỉ XIV như Báo cực truyện, Ngoại sử kí, Thiền uyển tập anh ngữ lục, Tam tổ thực lục, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái (LNCQ)(1) là để "khẳng định nước Việt là một quốc gia độc lập, có lịch sử lâu đời, có chủ và tương lai trường tồn"(2). Các tác phẩm nói trên đều chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của huyền thoại dân gian, đặc biệt là LNCQ. Có thể nói LNCQ là tác phẩm "mở đầu cho khuynh hướng sưu tầm, biên soạn, bảo tồn truyện dân gian"(3), "đưa tinh hoa của văn học dân gian vào văn học viết"(4). Với số lượng khá phong phú các dị bản LNCQ hiện còn trải dài qua các thời đại đã cho thấy tác phẩm có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nhiều thế hệ độc giả.

Theo thống kê của chúng tôi hiện còn 14 bản mang tên LNCQ Lĩnh Nam chích quái liệt truyện(LNCQLT) hiện được lưu trữ tại các Thư viện và Viện nghiên cứu tại Hà Nội. 10 bản tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) có kí hiệu: A.33; A.1300; A.1752; A.2107; A.1200; A.2914; A.750 (bản Nguyễn Hữu Kỉnh); A.750 (bản thành Ba-lê); VHv.1473; VHv.1266; 02 bản tại Thư viện Quốc gia (TVQG): R.6; R.1607 và 02 bản tại Viện Sử học(VSH): HV.531 và HV.486. Tất cả các bản LNCQ nói trên đều là các bản chép tay, với tình trạng văn bản hết sức đa dạng và phức tạp. Mặc dù việc khảo cứu văn bản để đi tới các bản cổ của LNCQ(5) dường như đã được khép lại, song thực tế khi tiếp xúc với tác phẩm này nhiều vấn đề mới lại nẩy sinh cần được giải quyết. Nếu không làm rõ những vấn đề đó, việc đánh giá, sử dụng LNCQ như một nguồn tư liệu quan trọng về văn học, sử học...sẽ thiếu cơ sở khoa học chắc chắn. Để có thể chỉ ra bản nào là cổ nhất trong số các dị bản LNCQ hiện còn, việc phân loại LNCQ là hết sức cần thiết.

Dựa vào sự đồng nhất trong việc thay đổi các tình tiết có liên quan đến nội dung và hình thức kết cấu văn bản, chúng tôi tạm chia văn bản LNCQ thành 4 loại sau: (các bản HV.531 và A.1752 do thiếu nhiều truyện, chúng tôi tạm gác lại. Riêng bản A.1300, tuy mất quyển đầu nhưng là bản có tên soạn giả, niên đại và người sao chép, có giá trị trong việc hiệu khám các bản LNCQ khác nên chúng tôi vẫn đưa vào danh mục khi phân loại LNCQ).

1. Loại 1: gồm các bản A.2914 (VNCHN) và R.1607 (TVQG).

2. Loại 2: gồm các bản HV.486 (VSH); VHv.1473, VHv.1266, A.750 (bản của Nguyễn Hữu Kỉnh); A.1300 (VNCHN).

3. Loại 3: gồm các bản: A.33, A.1200 (VNCHN).

4. Loại 4: gồm các bản A.2107, A.750 (bản thành Ba-lê) (VNCHN); R.6 (TVQG).

Lấy những bản trong cùng một loại so sánh với nhau, điều dễ nhận thấy là những biến động về mặt văn bản trong từng loại thường thống nhất. Lại lấy các bản khác loại so sánh với nhau thì thấy sự khác biệt giữa các loại không chỉ ở nội dung có hay không "tình tiết Kiều Phú"(6) mà còn có sự thay đổi về hình thức kết cấu truyện. Có thể tạm nêu ra những tình tiết lấy hoặc bỏ đi trong các truyện sau thuộc các loại 1, 2, 3 và 4. Đương nhiên giữa các tình tiết nêu ra trong các truyện dưới đây, sự đồng nhất giữa chúng trong từng loại cũng có sai dị, tỉ lệ trùng khớp có xê xích.

[Các đoạn trích bên dưới đều lấy theo sách LNCQ do GS. Đinh Gia Khánh (chủ biên) và GS. Nguyễn Ngọc San (biên khảo - giới thiệu)(7)] :

I. Các tình tiết thay đổi có liên quan đến nội dung

1. Tình tiết Xuy Vưu (chúng tôi gọi tắt). Trong Truyện về họ Hồng Bàng (Hồng Bàng thị truyện) đoạn ghi chép về Xuy Vưu:... "Đến đời Du Võng, Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu bèn sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền...” (LNCQ, Sđd, tr.30), chỉ có ở loại 1, 3, 4, không có ở loại 2.

2. Tình tiết 15 bộ. Cũng trong truyện Hồng Bàng, đoạn... "Chia nước làm 15 bộ, gọi là Việt Thường, Giao Chỉ... Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy) (LNCQ, Sđd, tr.32), chỉ có ở loại 1, 2, 3, không có ở loại 4.

3. Tình tiết Man Nương. Trong Truyện Man Nương (Man Nương truyện) các bản thuộc loại 2 và 4 (trừ A.750 - bản thành Ba-lê) đã lược bỏ chi tiết khá quan trọng, đó là từ “Man Nương” trong đoạn: "... Man Nương xấu hổ bỏ về, Đồ Lê cũng thẹn mà bỏ đi. Man Nương đi tới một ngôi chùa ở ngã ba sông thì ở lại đó...). Nếu bỏ từ “Man Nương”, thì Sư Đồ Lê là người đến ở ngôi chùa ở ngã ba sông chứ không phải là Man Nương.

4. Tình tiết Nam Chiếu. Truyện Nam Chiếu (Nam Chiếu truyện). Sau câu: “Quân Nam Chiếu ở đấy” đoạn: ... "thường lấy việc cướp bóc làm nghề, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi...) (LNCQ, Sđd, tr.121) chỉ có ở loại 1, 3, không có ở loại 2. ở loại 4: A.2107, R.6 không có Truyện Nam Chiếu. A.750 (bản Ba-lê) có truyện này nhưng thay đổi nhiều so với các loại 1, 2, 3, (bản này dài, có số chữ gấp hơn hai lần, khoảng 1310/480 chữ so với các bản ở loại 1, 2, 3).

5. Tình tiết Người anh thành trầu, người vợ thành đá. Truyện Trầu cau (Tân Lang truyện), đoạn "... Người anh biết em đã mất bèn lao đầu vào cây chết, hóa thành một khóm cây, quấn quýt lấy cây cau... Người vợ nhớ tình nghĩa vợ chồng cũng lao người vào bên cây chết, hóa thành hòn đá lớn" (chúng tôi trích từ LNCQ, A.2914) chỉ có ở loại 1, không có ở loại 2, 3 và 4.

6. Tình tiết Giấc mộng. Cũng trong truyện Trầu cau, đoạn: "... Về tới nhà, đêm nằm mộng thấy hai anh em tới vái mà nói rằng: “Chúng tôi nặng tình huynh đệ... một sớm thành người thiên cổ, để cho ta luống những sầu thương" (LNCQ, Sđd, tr.56), chỉ có ở loại 4.

7. Tình tiết Bạch trĩ. Truyện Bạch Trĩ (Bạch Trĩ truyện), đoạn: "... Chu công hỏi: “Có việc gì mà tới đây ?”. Họ Việt Thường đáp: “Đời nay không có mưa dầm gió dữ, ngoài bể không nổi sóng lớn đã ba năm, ý chừng là Trung Quốc có thánh nhân xuất thế, nhân vậy tới đây” (LNCQ, Sđd, tr.61), chỉ có ở loại 2, 3, không có ở loại 1. Loại 4 (trừ A.750 - bản Ba-lê, chép nguyên như bản A.33), bản A.2107, R.6 không có truyện này.

8. Tình tiết Lạc Long Quân. Truyện Giếng Việt (Việt tỉnh truyện), tình tiết: "... Lạc Long Quân hóa thành Đổng Thiên vương, cưỡi ngựa đi đánh giặc ân", chỉ có ở loại 1, 2; không có ở loại 3, 4.

9. Tình tiết Tản Viên con Lạc Long Quân. Truyện núi Tản Viên (Tản Viên sơn truyện), đoạn: "... Đại vương núi Tản Viên là một trong năm mươi người con trai về biển" (LNCQ. Sđd, tr.81), có trong loại 1, 2; không có trong loại 4 và phần chính văn của loại 3. Tình tiết này được loại 3 đưa xuống phần phụ lục đề là “Thế Pháp tập”.

10. Tình tiết Cao Biền. Cũng trong truyện Tản Viên, đoạn: "... Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam, muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng... Biền than rằng: “Linh khí ở phương Nam không thể lường được. Vượng khí đời nào hết được”. Sự linh ứng đã hiển hiện ra như vậy đó", (Sđd, tr.79) chỉ có ở loại 2, 3, 4 không có ở loại 1.

11. Tình tiết Lí Ông Trọng. Truyện Lí Ông Trọng (Lí Ông Trọng truyện), tình tiết: "... Tần Thủy Hoàng nhớ đến Lí Thân... Lí Thân bất đắc dĩ bèn tự vẫn chết", có ở hầu hết các loại 1, 2, 3 (trừ bản VHv.1266 thay đổi tình tiết và A.1300 mất truyện này); không có ở loại 4 (trừ A.750 - bản Ba-lê chép nguyên xi theo bản như bản A.33 nên có tình tiết này).

12. Tình tiết Hồ tinh chín đuôi. Truyện Hồ tinh (Hồ tinh truyện) đoạn... "Đời truyền Hồ tinh 9 đuôi, sinh được 9 con. Long Quân đã giết Hồ tinh và 8 con, còn 1 con chạy thoát về Diễn Châu, Hồ Quý Ly chính là con cháu của con Hồ này vậy" (LNCQ, Sđd, tr.41), chỉ có ở loại 4.

II. Các tình tiết có liên quan đến hình thức kết cấu văn bản

13. Tình tiết Nồi cơm thần kì. Truyện Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không (Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không truyện), đoạn "... Minh Không thấy sứ giả đến, trong thuyền có rất nhiều lính, muốn dọn cơm chay cho ăn, bèn lấy một cái nồi nhỏ đem cho họ... Bọn lính tỉnh dậy đều lấy làm kinh ngạc” (LNCQ, Sđd, tr.90), chỉ có ở phần chính văn loại 1, 3, tức truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, không có ở phần chính văn loại 2, 4. Tình tiết này ở loại 2, 4 nằm trong Nguyễn Minh Không biệt truyện.

14. Truyện riêng về Nguyễn Minh Không (Nguyễn Minh Không biệt truyện) có ở loại 2, 4, không có ở các loại 1, 3.

15. Tình tiết Sông Tô Lịch. Truyện sông Tô Lịch (Tô Lịch giang truyện), văn bản loại 4 mở đầu khác với các loại 1, 2, 3 như sau: "Nước ta có người họ Tô, tên Lịch, xưa sống ở Long Đỗ... đóng quân ở trong phủ" (LNCQ, Sđd, tr.77).

Để tiện theo dõi, xin xem bảng thống kê tổng hợp dưới đây.

Bảng thống kê các tình tiết thay đổi giữa các loại văn bản LNCQ

Ghi chú: dấu + : biểu thị có; dấu 0: biểu thị không; dấu - : biểu thị bỏ cả truyện hoặc mất.

Qua bảng thống kê trên, có thể thấy nhóm thuộc loại 1 và 3 có tỉ lệ trùng khớp cao hơn so với nhóm thuộc loại 2 và 4. Tuy có những sai dị nhưng sự đồng nhất trong việc thay đổi tình tiết và bố cục truyện đã chứng tỏ chúng được sao chép từ cùng một nguồn bản. Thử đối chiếu cách phân loại LNCQ theo nội dung và hình thức kết cấu văn bản (Nội dung và hình thức) với việc phân loại LNCQ theo "tình tiết Kiều Phú" (theo tình tiết Kiều Phú) thì thấy đã có sự thay đổi như sau:

1/ 4 bản A.2914, HV.486, VHv. 1473, A.750 (bản Nguyễn Hữu Kỉnh) trước được xếp thuộc cùng loại Một (theo tình tiết Kiều Phú), nay đã tách thành hai loại có hình thức kết cấu văn bản đối lập.

2/ Trong các nhóm văn bản thuộc loại Hai, loại trung gian (theo tình tiết Kiều Phú), bao gồm các bản VHv.1266, A.33, A.1200, A.750 (bản thành Ba-lê) đã bị tách ra thành 3 loại: loại 2, 3 và 4. Bản A.750 (bản thành Ba-lê) được đưa xuống loại 4.

3/ Trong văn bản loại Ba, (theo tình tiết Kiều Phú), đã được đưa xuống thành loại 4. Loại này khi Gs. Huệ Chi phân loại mới tìm ra 1 bản A.2107. Chúng tôi tìm thêm được 2 bản nữa, một ở TVQG, kí hiệu R.6 và một ở thư viện VHN kí hiệu A.750 (bản thành Ba-lê). Bản A.750 trước đây được xếp vào nhóm bản trung gian bỏ một hoặc hai tình tiết Kiều Phú, nhưng do cùng một kết cấu văn bản với A.2107 và R.6 nên chúng tôi xếp vào loại này.

Như vậy phương pháp phân loại theo nội dung và hình thức đã cho chúng ta một kết quả khác với phương pháp phân loại theo tình tiết Kiều Phú. Bằng chứng là văn bản loại Một, (theo tình tiết Kiều Phú) đã không thống nhất và văn bản không phải chỉ là một như nhận định trước đây, giữa bản A.2914 với HV.486, VHv.1473 và A.750 (bản Nguyễn Hữu Kỉnh) đã có sự xáo động nhất định. Trong loại Hai (theo tình tiết Kiều Phú), đã bao hàm cả văn bản thuộc loại Một, bản còn đủ 3 tình tiết Kiều Phú (bản HV.486, VHv.1473, A.750 (bản Nguyễn Hữu Kỉnh) và bản trung gian bỏ hai tình tiết Kiều Phú (bản VHv.1266). Trong loại Ba (theo tình tiết Kiều Phú) thuộc loại bỏ cả ba tình tiết Kiều Phú (A.2107 và R.6) lại có bản trung gian A.750 (bản thành Ba-lê) chỉ bỏ hai tình tiết Kiều Phú.

Từ những thay đổi như trên đã dẫn đến kết quả các văn bản thuộc loại có tín hiệu của đời Trần không chỉ dừng ở 4 bản A.2914, HV.486 và VHv.1473, A.750 (bản Nguyễn Hữu Kỉnh) mà đã tăng thêm 3 bản nữa, đó là các bản R.1607, A.1300 và VHv.1266. Trong loại 2, ngoài bản A.750 (bản Nguyễn Hữu Kỉnh) có Hậu tự của Kiều Phú, bản A.1300 cũng có bài Hậu tự của Kiều Phú. Như vậy trong nhóm bản loại 2 đã có hai bản có Hậu tự của Kiều Phú. Vấn đề ở đây là liệu có phải bài Hậu tự của Kiều Phú là sự gán ghép của người đời sau vào văn bản cổ truyền hay không ?

Như chúng ta đã biết, sau khi Vũ Quỳnh(8) chỉnh lí LNCQ được một năm, Kiều Phú(9) cũng cho ra đời một bản LNCQ do mình hiệu chỉnh và sửa chữa. Qua lời Tựa có thể thấy cả hai người đều tiến hành hiệu chỉnh từ một văn bản LNCQ thống nhất, với tư cách cá nhân, không phải với danh nghĩa Nhà nước. Công việc hiệu chỉnh đó có lẽ là bình thường đối với những người nhuận sắc sách vở cổ, không có gì đáng chú ý đối với dư luận học thuật đương thời nên ít người biết tới. Khoảng hơn 100 năm sau, bản hiệu chỉnh của họ Vũ mới được biết đến qua lần biên tập lại LNCQ của họ Đoàn(10). Trong bài Hậu bạt của Đoàn Vĩnh Phúc biên tập lại LNCQ vào năm Quang Bảo thứ nhất (1554), ông họ Đoàn cũng cho rằng: “Nay xem sách Lĩnh Nam liệt truyện tôi thấy không ghi tên tác giả, không biết do vị Nho sinh thời nào khởi thảo. Bản hiện hành là của ông Trạch ổ họ Vũ, người làng Mộ Trạch, một kẻ sĩ thời Hồng Đức, vang danh khoa hoạn, bác học hiếu cổ”(11). Qua lời ông họ Đoàn, chúng ta cũng biết thêm rằng bản LNCQ do ông hiệu chỉnh không phải là bản do Kiều Phú nhuận sắc. Còn bản của Kiều Phú, mặc dù cho đến tận đầu thế kỉ XX, người ta mới phát hiện trong số bản LNCQ hiện còn có Hậu tự của Kiều Phú, nhưng từ khi bản của họ Kiều ra đời vào năm 1493, sau khoảng hơn 200 năm, tên của Kiều Phú đã có mặt trong bản LNCQ soạn năm Chính Hòa 18 (1697). Và trong bản LNCQ do Tiến sĩ Vũ Khâm Lân(12) soạn năm Cảnh Hưng thứ 18 (1857) cũng có bài Hậu tự của Kiều Phú. Điều đó có thể khẳng định Kiều Phú là người có tham gia hiệu chỉnh, sửa chữa LNCQ. Bài Hậu tự của ông không thể là của người đời sau đưa thêm vào được.

Vậy manh mối nào có thể giúp chúng ta tìm đến bản sửa chữa của họ Kiều ? Phải chăng những bản đã xóa bỏ ba tình tiết Kiều Phú và những bản có Hậu tự của Kiều Phú là cơ sở để đi tới bản sửa chữa của họ Kiều ?

Trong số những dị bản của LNCQ, các bản thuộc loại 4 (trừ A.750 bản thành Ba-lê) là những bản đã sửa chữa triệt để theo tinh thần Kiều Phú. Những bản này có thể là bản do họ Kiều hiệu chỉnh không ? Theo chúng tôi, ba tình tiết Kiều Phú phê phán chưa đủ để kết luận về bản sửa chữa của họ Kiều, bởi như trên đã phân tích, ngay trong văn bản loại 4, bản đã xóa bỏ cả ba tình tiết Kiều Phú cũng bao hàm cả bản chỉ bỏ hai tình tiết Kiều Phú. Mặt khác, văn bản loại 4 có bài mục không phù hợp với lời Tựa của Kiều Phú. Văn bản loại 4 không có truyện Nam Chiếu và không có Hậu tự của Kiều Phú, vì vậy văn bản loại 4 khó có thể là đối tượng sửa chữa của họ Kiều.

Xem xét văn bản loại 3, chúng tôi cho rằng văn bản loại 3 cũng không phải bản của họ Kiều bởi bài mục không phù hợp với Hậu tự của Kiều Phú. Văn bản loại 3 không có truyện Dạ Thoa, thay vào đó là truyện Hai Bà Trưng, ở loại 3 cũng không có Hậu tự của Kiều Phú vì vậy văn bản loại 3 chỉ là loại trung gian mà thôi.

Điều đáng suy nghĩ là những chi tiết lịch sử của thế kỉ XV, những giai thoại có thể xuất hiện sau thời đại Lí, Trần như chi tiết giặc Minh đốt phá đền thờ Từ Đạo Hạnh trong truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không; chi tiết nữ sĩ Ngô Chi Lan (đời Lê Thánh Tông) đến thăm đền Phù Đổng (hai chi tiết này chúng tôi chưa nêu ra trong bảng thống kê) và giai thoại con hồ li trong truyện Hồ tinh... trong văn bản loại 3 và 4, liệu có thể là của Kiều Phú đưa vào khi hiệu chỉnh, đính chính văn bản LNCQ cổ không ? Có lẽ Tiến sĩ Kiều Phú không thể "cập nhật hóa" văn bản cổ bằng cách đưa vào những sự kiện lịch sử xảy ra trong thời đại ông sống và hoạt động được, những sự kiện của thế kỉ XV chỉ có thể là của người sau đưa vào mà thôi. Như vậy văn bản loại 3 và 4 không thể là đối tượng của họ Kiều.

Vậy các bản có Hậu tự của Kiều Phú có thể là bản sửa chữa của họ Kiều không ? Trong văn bản loại 1 và loại 2 đều có bản có Hậu tự của Kiều Phú, có thể coi cả hai loại đều là đối tượng sửa chữa của họ Kiều chăng ? Xem lại bản R.1607 (TVQG) thuộc loại 1 (bản do Nguyễn Nam Kim sao chép, không ghi niên đại sao chép) thì thấy bản này không chỉ có Hậu tự của Kiều Phú mà còn có Tựa của Vũ Quỳnh, Hậu bạt của Đoàn Vĩnh Phúc. Trong các dị bản của LNCQ không có bản nào có hình thức như vậy. Các bản thường chỉ có Tựa của Vũ Quỳnh, Hậu bạt của Đoàn Vĩnh Phúc, hoặc có Tựa của Vũ Quỳnh, Hậu bạt của Kiều Phú, hoặc chỉ có Tựa của Vũ Quỳnh, hoặc không có Tựa, Bạt. Trong lời Hậu bạt, Đoàn Vĩnh Phúc cho biết bản mà ông hiệu chỉnh là bản của Vũ Quỳnh, vì vậy việc có bài Hậu tự của Kiều Phú trong bản LNCQ Hậu bạt của Đoàn Vĩnh Phúc chỉ là sự "lắp ghép tùy tiện" về sau của ông Nguyễn Nam Kim. Mặt khác, sau bài Hậu bạt của Đoàn Vĩnh Phúc không có niên đại và tên Đoàn Vĩnh Phúc, do đối chiếu với bài Hậu bạt có trong bản A.2914 mà chúng tôi nhận ra đó là Hậu bạt của Đoàn Vĩnh Phúc. Cách sao chép không ghi đầy đủ có lẽ cũng là tín hiệu cho biết đây là bản chép lại về sau. Bản này có tị húy triều Nguyễn nên có thể đoán nó được sao chép vào thời Nguyễn.

Trong văn bản loại 2 có tới hai bản có Hậu tự của Kiều Phú: bản A.750 (bản Nguyễn Hữu Kỉnh) và A.1300. Bản A.750 mang tên Lĩnh Nam chích quái liệt truyện khảo chứng do Nguyễn Hàm Chuẩn phụng khảo năm Duy Tân thứ 5 (1911). Đây là bản đối chiếu giữa bản A.33 (được coi là bản gốc) với bản LNCQ của Nguyễn Hữu Kỉnh, người Bắc Ninh. Bản này có Tựa của Vũ Quỳnh, Hậu tự của Kiều Phú, không có niên đại và tên người sao chép. Bản A.1300 do Tiến sĩ Vũ Khâm Lân biên soạn, Nguyễn Nam Kim sao chép. Bản A.1300 do mất quyển đầu nên không biết trước quyển đầu có Tựa của Vũ Quỳnh không ? Nếu có thì A.1300 sẽ có hình thức giống với A.750 của Nguyễn Hữu Kỉnh, tức vừa có Tựa của Vũ Quỳnh, vừa có Hậu tự của Kiều Phú, đồng thời là bản không xóa bỏ tình tiết Kiều Phú. Vậy thực sự có tồn tại một bản Kiều Phú không ? Bản đó có hình thức như thế nào ? Chúng ta đã biết, Vũ Quỳnh và Kiều Phú đều không nói gì đến việc hiệu chỉnh LNCQ của nhau, chứng tỏ công việc của họ chỉ ngẫu nhiên trùng hợp. Cũng như Vũ Quỳnh, sau khi hiệu chỉnh, sửa chữa xong bản LNCQ cổ, họ Kiều cũng viết lời Tựa và đặt sau quyển Hai. Như vậy, bản sửa chữa của họ Kiều phải có Hậu tự của Kiều Phú và là bản đã xóa bỏ 3 tình tiết ông nêu ra trong Hậu tự. Đối chiếu với các bản LNCQ thuộc loại 1 và 2, chúng tôi không thấy có bản nào đáp ứng được tiêu chí nói trên, những bản có Hậu tự của Kiều Phú đều không xóa bỏ tình tiết Kiều Phú phê phán. Có thể trải qua vài trăm năm bản sửa chữa của họ Kiều đã bị pha tạp đi ít nhiều, khó có thể tìm lại được diện mạo ban đầu của nó. Thật may mắn, sự thay đổi về nội dung cũng như kết cấu văn bản như đã nêu trong bảng thống kê trên giữa hai loại 1 và 2 đã cho chúng tôi đi đến giả định văn bản loại 1 có thể của Vũ Quỳnh, loại 2 có thể là của Kiều Phú. Thử đối chiếu văn bản loại 1 với văn bản loại 2 thì thấy trừ những tình tiết trong văn bản loại 1 không có trong văn bản loại 2 (chúng tôi gọi là những dị biệt quan trọng), các câu trong văn bản loại 2 dường như là những câu tỉnh lược so với văn bản loại 1. Có thể đưa ra một vài thí dụ (văn bản loại 1 chúng tôi lấy đại diện là bản A.2914; văn bản loại 2 đại diện là HV.486).

Truyện Dưa hấu (Tây qua truyện)

A.2914:

因 以 此 物 貿 易 粟 而 食 之. 乃 留 種 於 後 年, 安 暹 再 種 以 為 產 業, 飲 食 不 厭. 時 此 物 因 白 鳥 啣 核 從 西 方 來 而 吐 落 于 沙 州, 不 知 果 何 名 故 置 名 曰 瓜.

(Nhân lấy vật đó đổi lấy kê để ăn, rồi lưu giống để năm sau An Tiêm trồng lại, coi đó là sản nghiệp, ăn không chán. Nhân chim trắng tha hạt từ phía tây lại mà nhả xuống bãi sông, không biết quả gì nên đặt tên là dưa).

HV. 486:

又 以 易 榖 米 給 食 妻 子. 然 不 知 其 名, 因 鳥 啣 自 西 來 號 曰 西 瓜.

(Lại đem đổi lấy thóc gạo, cấp cho vợ con. Không biết quả gì, nhân chim tha từ phía tây tới nên gọi là tây qua).

Tỉ lệ : 56 chữ/ 24 chữ, chênh 32 chữ.

Truyện Giếng Việt (Việt tỉnh truyện)

A.2914:

我 有 親 戚 貴 人 亦 有 此 疾, 請 君 治 之 則 得 厚 報. 貴 人 常 言, 其 能 治 此 疾, 分 家 財 貨 與 之, 不 吝, 是 不 虛 說.

(Ta có bậc quý nhân là họ hàng thân thích, cũng mắc bệnh đó, xin ông chữa cho, ắt đắc hậu báo. Quý nhân thường nói, nếu có thể trị được bệnh này sẽ phân cho gia tài của cải, không tiếc, cũng chẳng nói suông).

HV. 486:

我 親 戚 貴 人 亦 有 此 疾, 常 言 誰 能 療 治 則 罄 家 財 與 之, 不 吝.

(Ta có bậc quý nhân là họ hàng thân thích cũng mắc bệnh đó, thường nói ai chữa được bệnh này thì cho hết gia tài của cải, không tiếc).

Tỉ lệ: 39 chữ/ 23 chữ, chênh 16 chữ.

Như đã nêu trên, sự khác nhau trong hai loại văn bản 1 và 2 là điều không thể phủ nhận. Nếu văn bản loại 1 là của Vũ Quỳnh, văn bản loại 2 là của Kiều Phú như chúng tôi giả định thì trong văn bản trung gian ắt có những tình tiết là sự kết hợp giữa hai loại bản trên. Qua bảng thống kê chúng ta thấy trong văn bản loại 3 có các tình tiết mà văn bản loại 2 không có. Đối chiếu kĩ văn bản thì thấy không chỉ có tình tiết đã nêu trên, ở các câu, các đoạn khác trong văn bản có những từ, những câu đã "mất đi" ở loại 2 lại xuất hiện trong văn bản loại 3. Tuy nhiên những câu này lại được rút gọn lại, phần nhiều theo cách biểu hiện của văn bản loại 2. Có thể đưa ra vài thí dụ. Văn bản loại 1 lấy A.2914 làm đại diện; Văn bản loại 2: HV.486; Văn bản loại 3: A.33. [Bản A.33 là bản sao chép từ bản biên soạn năm Chính Hòa(1697)]

Truyện dưa hấu (Tây qua truyện)

A.2914:

王 聞 之 大 怒 曰: 為 人 臣 不 知 主 恩, 自 生 驕 慢 之 心, 謂 彼 都 是 前 身 之 物.

Vương văn chi đại nộ viết:"Vi nhân thần bất tri chúa ân, tự sinh kiêu mạn tâm, vị bỉ đô thị tiền thân chi vật" (Vương nghe vậy giận dữ nói:"Làm kẻ bề tôi không biết ơn chúa, sinh lòng kiêu căng, bảo các vật đó đều là của kiếp trước của mình).

HV. 486:

王 聞 之 大 怒 曰: 為 人 臣 子 不 知 主 恩, 自 生 驕 慢.

Vương văn chi đại nộ viết: "Vi nhân thần tử bất tri chúa ân, tự sinh kiêu mạn" (Vương nghe vậy giận dữ nói: "Làm kẻ bề tôi không biết ơn chúa, sinh lòng kiêu căng").

A.33:

王 聞 之 大 怒 曰: 為 人 臣 子 不 知 主 恩, 謂 彼 都 是 前 身 之 物.

Vương văn chi đại nộ viết: "Vi nhân thần tử bất tri chúa ân, vị bỉ đô thị tiền thân chi vật" (Vương nghe vậy giận dữ nói: "Làm kẻ bề tôi không biết ơn chúa, bảo các vật đó đều là của kiếp trước của mình").

Truyện Rùa vàng(Kim quy truyện)

A.2914:

金 龜 曰: 國 有 盛 衰, 社 稷 安 危, 天 之 運.

Kim Quy viết: "Quốc hữu thịnh suy, xã tắc an nguy, thiên chi vận” (Kim Quy nói: "Nước có lúc thịnh suy, xã tắc có lúc an nguy, đó là mệnh trời).

HV.486:

金 龜 曰: 國 祚 修 短, 社 稷 安 危, 天 之 運 也.

Kim Quy viết: "Quốc tộ tu đoản, xã tắc an nguy, thiên chi vận dã. (Vận nước có lúc dài ngắn, xã tắc có lúc an nguy, đó là mệnh trời).

A.33:

金 龜 曰: 國 祚 盛 衰, 社 稷 安 危, 天 之 運 也.

Kim Quy viết: "Quốc tộ thịnh suy, xã tắc an nguy, thiên chi vận dã. (Vận nước có lúc thịnh suy, xã tắc có lúc an nguy, đó là vận trời).

Như vậy, văn bản loại 3 là sự dung hòa giữa văn bản loại 1 và văn bản loại 2. Điều này phù hợp với giả định của chúng tôi là trước khi văn bản loại 3 xuất hiện đã song song tồn tại cả hai bản LNCQ của họ Vũ và họ Kiều. Điều băn khoăn là vì sao văn bản loại 2 lại có số lượng dị bản nhiều như vậy ? (5 bản trên tổng số 12 bản). Không có lẽ bản của Kiều Phú lại trở thành "nguồn cảm hứng" của nhiều thế hệ độc giả đến vậy sao. Xem lại văn bản loại 2, những câu rườm rà, những đoạn lặp lại được viết theo lối khẩu truyền dân gian trong văn bản loại 1 đã được gọt giũa gọn gàng trong văn bản loại 2. Cách biểu hiện Hán văn trong văn bản loại 1 "dân dã" theo lối nói của người Việt bao nhiêu thì trong văn bản loại 2 lại "uyên bác", chỉn chu theo đúng ngữ pháp văn ngôn bấy nhiêu. Sự thay đổi nội dung nhằm đề cao Nho giáo, cho đậm màu sắc tam cương ngũ thường cũng có thể thấy qua các truyện Man Nương, truyện Trầu cau... trong văn bản loại 2. Có lẽ sự thay đổi cả trên hai phương diện nội dung và hình thức của bản Kiều Phú phù hợp với nhãn quan của các nhà Nho đương thời nên bản Kiều Phú có sức "phổ cập" hơn trong xã hội mà Nho giáo đã trở thành độc tôn. Sự thay đổi này còn được các thế hệ về sau đồng tình, đón nhận, duy ba tình tiết Kiều Phú phê phán thì hình như không phải ai cũng đồng ý, bằng chứng là trong văn bản loại 2, (trừ VHv.1266) các tình tiết Kiều Phú phê phán vẫn tồn tại. Do có sự kết hợp giữa loại 1 và loại 2 trong văn bản loại 3 như đã nêu trên, cho phép suy đoán sau khi văn bản loại 3 ra đời vào năm Chính Hòa 18 (1697) cũng là lúc bản Kiều Phú thay đổi. Người ta đã dung hòa bản Kiều Phú bằng cách thêm lời Tựa của Vũ Quỳnh, đổi lại ba tình tiết Kiều Phú đã sửa. Như vậy một bản LNCQ mới với Hậu tự của Kiều Phú, Tựa của Vũ Quỳnh cùng 3 tình tiết Kiều Phú không thay đổi đã ra đời. Đó là bản mà sau này Vũ Khâm Lân và người sao chép bản của Nguyễn Hữu Kỉnh đã dựa vào để sao chép. Do không có điều kiện thu thập dị bản, không biết sự khác nhau giữa các văn bản, người sao chép mặc nhiên cho rằng bản còn đủ ba tình tiết Kiều Phú phê phán là bản cổ- bản của Vũ Quỳnh. Vì vậy số dị bản trong văn bản loại 2 nhiều hơn các loại khác là điều không có gì lạ. Đồng thời người sao chép cũng tỏ ra khá trung thành với tư liệu có trong tay nên đã tạo ra một sự thống nhất trong 5 dị bản của văn bản loại 2. Trong 5 dị bản này, cho dù bao hàm cả bản có Hậu bạt của Đoàn Vĩnh Phúc (HV.486) hoặc bản đưa thêm truyện của thế kỉ XVIII (VHv.1266) cũng không phủ nhận được chúng cùng được xuất phát từ một bản ban đầu đó là bản sửa chữa của họ Kiều.

Một điều băn khoăn nữa, vì sao văn bản loại 4 lại triệt để sửa chữa 3 tình tiết Kiều Phú đưa ra trong Hậu tự. Có mối liên quan nào với bản có Hậu tự của Kiều Phú không ? Sau khi bản có Tựa của Vũ Quỳnh, Hậu tự của Kiều Phú và không xóa bỏ tình tiết Kiều Phú (chúng tôi gọi là bản Kiều Phú 2) ra đời cùng thời hoặc sau năm Chính Hòa 18 (1697) thì bản có Hậu tự của Kiều Phú và là bản xóa bỏ tình tiết Kiều Phú(chúng tôi gọi là Kiều Phú 1) có lẽ sau một thời gian dài đã hoàn toàn mất hẳn. Bằng chứng là bản Kiều Phú 1 không có trong số bản LNCQ hiện còn. Xem lại văn bản loại 4, trừ những tình tiết và sự kiện thế kỉ XV được đưa vào sau, đối chiếu phần còn lại với văn bản loại 2 và 3 thì thấy chúng là sự dung hòa của hai loại trên, nhưng cách biểu hiện đã thay đổi theo ý chủ quan của người hiệu chỉnh. Có thể lấy lại ví dụ nêu trên trong truyện Dưa hấu (Tây qua truyện), lấy A.2107 làm đại diện.

A.2107:

以 易 米 榖 給 養 嬰 兒, 然 不 知 其 為 何 果, 以 其 啣 自 西 來 故 曰 西 瓜.

Dĩ dịch mễ cốc cấp dưỡng anh nhi, nhiên bất tri kì vi hà quả, dĩ kì hàm tự tây phương lai, cố viết tây qua. (Lấy [dưa] đổi gạo khoai nuôi dưỡng con thơ. Không biết là quả gì, nhân nó được tha từ phía tây lại nên gọi là tây qua).

Có thể thấy ý nghĩa của câu văn trên không thay đổi so với loại 2 và 3. Sự thay đổi chỉ dừng ở cấp độ từ. Ví dụ từ thê tử (vợ con) trong văn bản loại 2 đổi thành anh nhi (con thơ) trong văn bản loại 4. Cấp lương đổi thành cấp dưỡng (nuôi dưỡng) (Từ này trong văn bản loại 3 cũng là cấp dưỡng).

Không chỉ là sự dung hòa giữa loại 2 và 3, tiêu đề một số truyện trong văn bản loại 4 đã bị thay đổi. Ví dụ Truyện dưa hấu (Tây qua truyện) đổi thành Truyện quả dưa hấu của họ Mai (Mai thị tây qua truyện); Truyện Giếng Việt (Việt tỉnh truyện) thay bằng Truyện ông Ngự sử họ Thôi (Thôi Ngự sử truyện)... Bố cục một số truyện cũng được thay đổi như: Truyện sông Tô Lịch (Tô Lịch giang truyện), Truyện núi Tản viên (Tản Viên sơn truyện). Sự thay đổi trên cho thấy văn bản loại 4 đã có xu hướng "xa rời" dần văn bản cổ, nó không đơn thuần là tác phẩm hiệu chỉnh văn bản cổ nữa. Có lẽ sự mất đi hoàn toàn của văn bản Kiều Phú 1 đã khiến cho ai đó thấy cần có lại bản của Kiều Phú. Nhưng do không có điều kiện thu thập đầy đủ dị bản nên họ không biết bản của Kiều Phú có "mặt mũi" thế nào, chỉ dựa vào 3 tình tiết Kiều Phú phê phán nêu trong Hậu tự có trong các bản Kiều Phú 2 để dựng lại một bản Kiều Phú đã xóa bỏ ba tình tiết. Mặt khác, văn bản loại 4 đưa thêm vào tình tiết của thế kỉ XV nên có thể suy đoán văn bản loại 4 có lẽ ra đời vào thời đại sau này.

Riêng hai bản HV.531 (VSH) và A.1752 (VNCHN) chúng tôi không đưa vào khi phân loại, bởi ngoài một số truyện của LNCQ còn đưa thêm truyện của thế kỉ XVIII như Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề(13). Vì vậy, hai bản trên chỉ có thể xuất hiện vào thời điểm sau Công dư tiệp kí (Chúng tôi gọi là văn bản loại 5).

Từ những phân tích trên, chúng tôi đi đến kết luận: văn bản loại 1 là bản của Vũ Quỳnh (văn bản gốc), từ đó sinh ra bản Kiều Phú 1 qua tay Kiều Phú. Văn bản loại 1 không xa với văn bản cổ truyền, bản Kiều Phú 1 là sự thay đổi, phá vỡ cái nguyên vẹn của văn bản cổ. Sau một thời gian dài lại có sự dung hợp giữa văn bản loại 1 và bản Kiều Phú 1 để sinh ra văn bản loại 3. Cùng thời hoặc sau thời kì xuất hiện của văn bản loại 3, bản Kiều Phú 1 lại được thay thế bằng văn bản Kiều Phú 2 (tức văn bản loại 2). Tiếp đó văn bản loại 4 được sinh ra để bù lại phần nào sự "mất đi" của bản Kiều Phú 1. Kế thừa các thế hệ trước trong việc sưu tầm truyện cổ dân gian, các bản LNCQ loại 5 ra đời. Việc phân loại LNCQ theo nội dung và hình thức kết cấu văn bản có lẽ là phù hợp với tình hình phân hóa của chúng trong thực tế lịch sử.

Sơ đồ về quá trình lưu truyền
các loại văn bản lĩnh nam chích quái

CHÚ THÍCH

(1) Lĩnh Nam chích quái (LNCQ) là tập sách ghi chép truyền thuyết và truyện cổ dân gian Việt Nam được viết bằng chữ Hán, xuất hiện khoảng thời Trần, tương truyền tác giả là Trần Thế Pháp (Trần Thế Pháp hiệu Thức Chi, người huyện Thạch Thất, nay thuộc tỉnh Hà Tây. Không rõ hành trạng). Đến thế kỉ XV được Vũ Quỳnh và Kiều Phú phát hiện chỉnh lí và biên soạn lại. Theo lời Tựa của Vũ Quỳnh và Kìều Phú sách gồm 2 quyển, 22 truyện. Đến giữa thế kỉ XVI, Đoàn Vĩnh Phúc biên tập lại và thêm phần Loại tục và cuối bản. Đến thế kỉ XVII có người đã sao chép lại LNCQ cũng với số truyện là 22, nhưng đã thay đổi thêm bớt truyện so với mục lục của Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Tới thế kỉ thứ XVIII, Vũ Khâm Lân lại tiếp tục làm công việc tăng bổ, tục bổ cho LNCQ. Sang thế kỉ XIX, kế thừa việc sưu tầm truyện cổ dân gian, các tác giả một lần nữa lại "thay da đổi thịt" cho LNCQ. Việc "định hình văn bản LNCQ" phải đến đầu thế kỉ XX mới tạm thời kết thúc.

(2) Nguyễn Đăng Na. Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại. Nxb Giáo dục. 1997, tr.22-23.

(3) Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại. Sđd, tr.107.

(4) Riptin B.L. Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của phương Đông theo phương pháp loại hình. Lê Sơn dịch. Tạp chí Văn học số 2/1974, tr.107-123.

(5) Nguyễn Huệ Chi. Thơ văn Lí Trần, phần Khảo luận văn bản LNCQ. Tập II, Nxb. KHXH. Hà Nội. 1978, tr.86-98.

(6) Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong phần Khảo luận văn bản LNCQ đã dựa vào ba tình tiết vốn có trong cuốn LNCQ không được Kiều Phú tán thành và đã sửa chữa để đi đến phân loại LNCQ. Đó là 1. Thần Tản Viên không phải con trai âu Cơ; 2. Đổng Thiên Vương không phải là Lạc Long Quân thác thế; 3. Lí Ông Trọng không phải giả vờ đi tả mà chết. ở đây chúng tôi gọi tắt là "tình tiết Kiều Phú".

(7) Lĩnh Nam chích quái. Đinh Gia Khánh chủ biên, Nguyễn Ngọc San biên khảo giới thiệu. Nxb. Văn hóa. Hà Nội. 1990.

(8) Vũ Quỳnh (1453-1516) hiệu Đốc Trai và Yến Ôn, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, trấn Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Đỗ Hoàng giáp năm 1478, làm quan đến chức Thượng thư bộ Công, bộ Lễ, bộ Binh, kiêm quốc tử giám tư nghiệp và Tổng tài Viện Quốc sử. Ngoài việc chỉnh lí LNCQ, ông còn là soạn giả bộ Việt giám thông khảo và cuốn Đại thành toán pháp.

(9) Kiều Phú (1147 - ?): tự Hiếu Lễ, hiệu Ninh Sơn, người làng Lạp Hạ, trấn Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Đỗ Tiến sĩ năm 1475, làm quan đến chức Tham chính.

(10) Đoàn Vĩnh Phúc: Không rõ năm sinh, năm mất. Theo bài Hậu bạt đề năm Quang Bảo sơ niên (1554) ở một số bản LNCQ, ông làm việc ở cục Tú lâm thuộc Viện Hàn lâm đời nhà Mạc.

(11) Trích theo bản dịch của PGs.Trần Nghĩa trong Tổng tập tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, Sđd, tr.155.

(12) Vũ Khâm Lân: nguyên tên là Vũ Khâm Thận, đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái 8 (1727), làm quan đến chức Tham tụng. Sau khi đi sứ Thanh về ông được thăng tước Ôn quận công. Ông người làng Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ, nay là thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

(13) Công dư tiệp kí (Những truyện ghi chép nhanh khi rảnh rỗi việc quan) của Vũ Phương Đề (1697-17 ?).

TB

THÊM MỘT TÊN KHÁC CỦA
THÁM HOA NGUYỄN MINH TRIẾT

ĐINH VĂN MINH

Trong khuôn viên di tích nhà thờ Phạm Công Trứ(1) ở thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên có 10 tấm bia đá, trong đó có tấm: Huệ điền chi bi (bia ghi việc hiến ruộng cho văn hội nhà thờ cúng Đỗ Thế Diên() và Thái bảo Thọ Xuyên hầu(3), dựng năm Cảnh Trị thứ 6 (1668) và Thái bảo công từ đường chi bi, dựng năm Cảnh Trị thứ 7 (1669). Cả hai tấm bia đá này có dòng lạc khoản ghi “Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh khoa Tân Mùi, đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Công bộ Thượng thư, Thiếu bảo, Cẩm quận công, trí sĩ Hải Nam Chí Lạc(4) Phúc phủ Nguyễn Thọ Quyến soạn”. Lạc khoản của hai tấm bia nêu trên cho biết tác giả Nguyễn Thọ Quyến là bậc đại khoa, đã thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (tức Thám hoa) khoa Tân Mùi. Tuy không nói rõ Tân Mùi là Tân Mùi nào, nhưng bia do Nguyễn Thọ Quyến dựng năm Cảnh Trị 7 (1669) thì Tân Mùi đó phải là năm 1631 đời Lê Thần Tông.

Tra cứu các tài liệu thư tịch liên quan chúng ta thấy:

· Đại Việt sử ký toàn thư (dưới đây gọi là Toàn thư ) bản Chính Hòa thứ 18 (1697) phần Bản kỷ tục biên (BKTB) quyển (Q.18, tờ 28b, chép: “Tân Mùi (Đức Long) năm thứ 3 (1631), tháng 3 thi Hội các sĩ nhân trong nước, lấy đỗ bọn Nguyễn Minh Triết gồm 6 người” Đến khi vào thi Đình, vua “cho Nguyễn Minh Triết đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam danh” (tức Thám hoa)”(5)

· Tam khôi bi lục, ký hiệu A.3078, soạn năm Tự Đức Canh Thân (1860), phần Hậu Lê trang 25a ghi rõ khoa Tân Mùi, Nguyễn Minh Triết đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, quê Lạc Sơn, Chí Linh, Hải Dương, cháu của Nguyễn Minh Thiện(6), ngự bút phê cho đổi tên là Thọ Xuân, còn có tên là Hậu Quyến.

· Tam khôi lục, ký hiệu VHv.292, tr.36, chép khoa Tân Mùi, Nguyễn Minh Triết đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, quê ở Lạc Sơn Chí Linh, cháu của Nguyễn Minh Thiện, đỗ lúc 54 tuổi.

· Lịch đại đăng khoa lục, ký hiệu VHv.652 trang 19 cho biết khoa Tân Mùi có Nguyễn Thọ Xuân quê ở xã Lạc Sơn huyện Chí Linh, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, 53 tuổi đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, làm quan đến chức Thượng thư.

· Lịch đại đại khoa lục, ký hiệu A.2119, trang 136b chép: Khoa Tân Mùi Đức Long năm thứ 3 lấy đỗ 5 Tiến sĩ, Nguyễn Thọ Xuân, quê xã Lạc Sơn, huyện Chí Linh, sau làm quan đến chức Công bộ Thượng thư, Thiếu bảo Cẩm quận công, trí sĩ, xưa tên là Minh Triết, ngự bút cho đổi là Thọ Xuân, thọ 95 tuổi, tặng Hộ bộ Thượng thư, cháu của Minh Thiện.

· Hải Dương phong vật chí, ký hiệu A.2878 (sách này không đánh số trang) ghi rõ: Nguyễn Minh Triết sau đổi tên là Thọ Xuân quê ở Lạc Sơn, Đức Long Tân Mùi thi Đình đỗ Thám hoa.

Như thế là đã rõ: người đỗ đầu thi Hội, thi Đình khoa ất Mùi niên hiệu Đức Long 3 (1631) được ban “Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh” (tức Thám hoa) là Nguyễn Minh Triết người xã Lạc Sơn, huyện Chí Linh (Hải Dương). Tuy Toàn thư chỉ ghi tên là Nguyễn Minh Triết, nhưng các sách Đăng khoa lục đầu tiên, ngoài ghi tên chính khi đỗ là Nguyễn Minh Triết có ghi thêm các tên khác là Nguyễn Hậu Quyến và tên vua ban là Nguyễn Thọ Xuân.

Toàn thư cũng ghi về Nguyễn Hậu Quyến hai lần, lần thứ nhất vào năm Vĩnh Thọ thứ 2 (1659) tháng 9 “Đặc sai đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Công bộ Thượng thư Dĩnh Xuyên hầu Nguyễn Hậu Quyến cầm phù tiết, mang sách vàng tiến tôn làm Dực vận tán trị công thần Đại nguyên soái chưởng quốc chính Thượng sư Tây Vương (BKTL – Q.18, tờ 55b); Lần thứ hai vào năm Nhâm Tý Dương Đức thứ 1 (1672) tháng 6 “Công bộ Thượng thư Thiếu bảo Cẩm quận công, trí sĩ Nguyễn Hậu Quyến chết, thọ 95 tuổi, gia tăng Hộ bộ Thượng thư, ban thụy hiệu là Văn Đẩu – Hậu Quyến là người xã Lạc Sơn, huyện Chí Linh” (BKTL. Q.19, tờ 31b). Nguyễn Hậu Quyến được Lê Quí Đôn (1726 - 1784) chú thích trong Toàn Việt thi lục như sau: quê ở Lạc Sơn, Chí Linh; xưa tên là Minh Triết, Thám hoa khoa Tân Mùi, thi ở Kim điện đỗ đầu, làm quan đến chức Bồi tụng Công bộ Thượng thư Dĩnh Xuyên hầu, 83 tuổi trí sĩ, gia Thiếu bảo, Cẩm quận công, thọ 95 tuổi(7) (A.132/4 Q.23, tr.5a). Để chắc chắn hơn, chúng tôi đã tìm đến “pho sử bằng đá” – bia Văn miếu Hà Nội, bản rập số 1340 hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm là bia ghi tên Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1631), ở dòng thứ 5 kể từ trái sang phải ghi rõ Nguyễn Thọ Quyến đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, quê xã Lạc Sơn, huyện Chí Linh.

Nói tóm lại, người thi đỗ Thám hoa khoa Tân Mùi niên hiệu Đức Long 3 (1631) đời Lê Thần Tông được Toàn thư và các sách Đăng khoa lục ghi với họ tên khi đi thi là Nguyễn Minh Triết. Tuy Toàn thư không ghi chú thêm nhưng các sách Đăng khoa lục (đã dẫn) đều ghi rõ ông cón có tên là Nguyễn Hậu Quyến, Nguyễn Thọ Xuân. Trong cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam(8) cũng có ghi các tên khác nhau đó (nhưng ở sách dẫn chỉ kê một tên khi thi đỗ). Nay căn cứ vào bia Tiến sĩ ở Văn miếu và hai tấm bia do chính Nguyễn Thọ Quyến soạn, chúng ta có thể biết và bổ sung thêm một tên gọi khác của Nguyễn Minh Triết là Nguyễn Thọ Xuân. Ghi thêm được điều này sẽ thuận tiện nhiều hơn cho người nghiên cứu.

CHÚ THÍCH

(1) Phạm Công Trứ ( 1600 – 1675), đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1628, làm quan đến chức Tể tướng. Ông cùng với một số danh sĩ khảo duyệt và tục biên bộ Đại Việt sử ký – bản kỷ tục biên. Ông có công trong việc tu sửa Văn miếu – Quốc tử giám, sáng tác tập thơ Phán thủy tập - Phạm Công Trứ có 17 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.

(2) Đỗ Thế Diên (?): người làng Cổ Liêu huyện Đường Hào, nay là thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên - Đỗ khoa chọn người giỏi thi thư năm ất Tỵ niên hiệu Trinh Phù thứ 10 (1185) đời Lý Cao Tông.

(3) Thọ Xuyên hầu: thân sinh của Phạm Công Trứ được ấm phong là Thọ Xuyên hầu.

(4) Hải Nam Chí Lạc: có thể là tên hiệu của Nguyễn Thọ Quyến (tức Hải Dương, Sơn Nam Chí Linh, Lạc Sơn).

(5) Phụ lục nguyên bản chữ Hán, tập 4, Nxb. KHXH. 1998.

(6) Nguyễn Minh Thiện: (1524 - ? ) quê xã Lạc Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu niên hiệu Sùng Khang 12 (1577) đời Mạc. Trước làm quan nhà Mạc, sau theo về nhà Lê, làm quan đến chức Hiến sát sứ.

(7) Lịch triều đăng khoa lục (VHv. 281/1), trang 61 chép là: thọ 98 tuổi (?).

Hải Dương phong vật chí (A.2878) kể rằng Nguyễn Thọ Quyến 90 tuổi còn sinh con trai (?).

(8) Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học - 1993.

TB

ĐÔI NÉT VỀ VĂN KHẮC HUYỆN VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG

LÂM GIANG

Văn khắc huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang dồi dào về thác bản, phong phú về nội dung. ở đây phản ánh khá đặc sắc về đời sống vật chất cũng như về tinh thần và sinh hoạt làng xã vùng bán sơn địa xứ Kinh Bắc thời phong kiến. Trong bài viết này không thể đề cập được đầy đủ mọi khía cạnh mà số văn khắc hiện đã thu thập, lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm phản ánh. Sau đây là một vài nét mà tác giả bài viết tâm đắc: Tình hình thác bản; đôi nét về nội dung.

I. Tình hình thác bản.

Huyện Việt Yên hiện có 342 thác bản văn khắc, trong đó có 4 thác bản khắc trên chuông, 3 thác bản khắc trên biển gỗ, cột gỗ, số còn lại đều được khắc trên đá, hiện đang lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Có được số thác bản trên là nhờ có 2 đợt sưu tầm in rập thác bản:

- Trước Cách mạng tháng Tám, do Trường Viễn đông Bác cổ in rập được 86 thác bản từ bia đá.

- Các năm 1994, 1995, Viện Nghiên cứu Hán Nôm in rập được 305 thác bản từ bia đá, biển gỗ, cột đá, chuông, cột gỗ.

1. Những thác bản in rập trước Cách mạng tháng Tám đều có niên đại sớm, phần lớn từ thời Cảnh Hưng trở về trước, như: Thời Cảnh Hưng 27 thác bản, thời Chính Hòa 28 thác bản, thời Vĩnh Thịnh 13 thác bản, chỉ có 1 thác bản thời Tây Sơn, niên hiệu Bảo Hưng 1, và 1 thác bản thời Nguyễn, niên hiệu Tự Đức 8 (1855). Trong thời kì này thác bản in rập được có niên đại sớm nhất là Long Đức 5 (1633): Đoan Minh tự tạo Bổ Đà kí 端 明 寺 造 補 佗 記 (No6240-41), dựng tại chùa Đoan Minh, xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà), ghi họ tên trên 500 tín thí cung tiến tiền cho dân xã xây cất chùa Đoan Minh và tạo tượng Phật. Ngoài ra, còn có 2 bia có niên đại muộn hơn bia trên một chút: Long Đức 7 (1635), 1 dựng ở chùa Diên Phúc, xã Yên Viên (nay thuộc xã Vân Hà), nói về việc tu sửa chùa, 1 vẫn dựng tại chùa Đoan Minh, nói về việc lát đường đá vào chùa.

2. Vào những năm 1994, 1995, Viện Nghiên cứu Hán Nôm tiến hành sưu tầm hầu hết số văn khắc còn lại ở Việt Yên, trong đó tuyệt đại đa số các thác bản sưu tầm được có niên đại thuộc triều Nguyễn. Thác bản có niên đại muộn nhất Vi lập bi kí 為 立 碑 記 (N.31262),

dựng tại thôn Trung Đồng, xã Vân Trung, tạo năm Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 2 (1947), ghi việc một bà giữa đường đứt gánh, không có con thờ cúng nên gửi giỗ vào đình với 600 đồng và hơn 1 mẫu 7 sào ruộng... Trong lần sưu tầm in rập này còn thu thập được không ít những thác bản văn khắc có niên đại sớm mà lần sưu tầm hồi trước Cách mạng tháng Tám chưa thu thập được, trong đó có thác bản sớm nhất trong số thác bản hiện có tại Việt Yên: Trùng tu Sùng Quang tự bi 重 修 崇 光 寺 碑 (N.31222-23), để tại nghè Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, tạo năm Long Đức 3 (1631), nói về quan Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Nội phủ giám, Tổng thái giám, Chưởng giám sự, Dương Nghĩa hầu Thân Thạc Vọng hưng công trùng tu chùa Sùng Quang.

Trong lần sưu tầm này, cũng đã in rập lại được một số bia mà lần trước đã in rập: 36 bia, trong tổng số 86 bia (50 bia không in rập được lần này, hoặc do bia đã bị phá hủy, hoặc bị thất lạc...), tạo thành 1 phiên bản thứ hai trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, nhân đây thống kê lại để tiện tham khảo. Xem biểu thống kê (Biểu I).

Cũng phải nói thêm, có một số bia, giữa hai lần in rập số mặt không như nhau. Đó là do có một số bia 2 mặt hoặc 4 mặt, lần in rập trước chỉ rập 1 mặt hoặc 2 mặt chính, còn lại 1 hoặc 2 mặt mà người sưu tầm lần đó cho là không quan trọng nên bỏ không rập, nhưng lần sưu tầm sau thì in rập cả 2 hoặc 4 mặt (như các thác bản số 1, 3, 8, 14, 29... trong biểu thống kê trên). Lại có một số bia lần sưu tầm sau in rập được số mặt ít hơn so với số mặt của lần sưu tầm trước, vì lần này loại bỏ đi mặt bị vỡ, hoặc quá mờ, hoặc bị xây bít vào tường... (như các thác bản số 7, 10, 12... trong biểu thống kê trên).

Về phân bố: văn khắc của huyện Việt Yên nhìn chung phân bố đều trong toàn huyện, nhưng về mật độ thì khá chênh lệch: Có xã thôn không có đơn vị văn khắc nào, trái lại có xã thôn mật độ văn khắc rất cao, như xã Ninh Sơn 25 thác bản, xã Vân Trung 60 thác bản, xã Vân Hà có tới 154 thác bản, trong đó thôn Thổ Hà 32 thác bản, thôn Yên Viên 122 thác bản, riêng chùa Diên Phúc của Yên Viên có tới 100 thác bản...

Về hình thức, chủ yếu là văn khắc trên đá, với bia 4 mặt, 2 mặt, 1 mặt, bao gồm cột đá, cây hương... Ngoài ra còn có văn khắc trên chuông đồng thường là 4 mặt, biển gỗ 3 mặt, cột gỗ thường là 1 mặt.

II. Đôi nét về nội dung

Nội dung văn khắc Việt Yên khá phong phú, phản ảnh nhiều mặt của đời sống làng xã đương thời. Sau đây chỉ xin điểm mấy nét tiêu biểu:

1. Bia ghi tên các vị đỗ đạt. Loại này chủ yếu được dựng tại văn chỉ, nhà thờ họ, đình... ở Việt Yên hiện chỉ thấy 2 thôn Thổ Hà và Yên Viên thuộc xã Vân Hà có văn chỉ. Văn chỉ thôn Yên Viên chỉ có 3 bia, văn chỉ thôn Thổ Hà 11 bia. Qua văn bia thấy Văn chỉ thôn Thổ Hà có từ rất sớm: Bia Văn thuộc giáp tự miếu bi 文 屬 甲 祀 廟 碑 (N.8369), cho biết vào năm Vĩnh Trị 5 (1680) dân thôn đã bắt đầu xây cất từ chỉ với trên 200 người đóng góp tiền của. Hay bia Tiên hiền tự miếu bi 先 賢 祀 廟 碑 (N.8385), tạo năm Vĩnh Trị 5 (1680), cho biết trên 50 người trong hội Tư văn góp tiền mua đá xây miếu thờ Tiên hiền. Có lẽ từ đây các sinh hoạt tế lễ tại văn chỉ đã bắt đầu vào nền nếp. Lúc này trong văn bia chưa thấy nói đến người thi đỗ. Đến năm Chính Hòa 25 (1704), trong bia Văn thuộc tái tự Thánh hiền tự miếu bi 文 屬 再 祀 聖 賢 祀 廟 碑 (N.3872-74), do Cái Đắc Đạt thi Hương đỗ tứ trường soạn, mới thấy bắt đầu kê tên những người trong thôn thi đỗ các khoa thi Hương như: Phủ sinh Cái Đắc Danh trúng nhị trường khoa Canh Tý và ất Mão; Phủ sinh Cái Đăng Đạo trúng khoa Tân Dậu; Phủ sinh Trịnh Tài Huệ trúng khoa Tân Dậu; Phủ sinh Nguyễn Đức Thận trúng khoa Tân Dậu; khoa thi Hương năm Giáp Tý, Dương Tất Thịnh trúng Sinh đồ, đỗ đầu tứ trường... (và 19 người nữa). Và bắt đầu từ đây bia văn chỉ Thổ Hà ghi tiếp các vị đỗ đạt vào bia. Người đỗ đại khoa Thổ Hà chưa có, nhưng người đỗ trung khoa thì nhiều. Bia Tư văn giáp 斯 文 甲 (N.8403-05), 3 mặt, 1 mặt khắc năm Vĩnh Hựu 3 (1737), cho biết: Trịnh Hữu Hạnh, tự Pháp Nghiêm, đỗ Sinh đồ khoa Giáp Ngọ; Cái Đắc Tông, đỗ Sinh đồ khoa Đinh Dậu; Trịnh Tài Hùng, tự Đạo Tuấn, đỗ Sinh đồ khoa Đinh Dậu; Trịnh Đăng Quĩ đỗ Sinh đồ khoa Đinh Dậu; Nguyễn Đức Thuần đỗ Sinh đồ khoa Quí Mão... (và 8 người nữa). Hai mặt còn lại khắc năm Cảnh Hưng 15 (1754), kê tiếp các vị đỗ trung khoa, như: Trịnh Đăng Ngôn đỗ sinh đồ khoa Mậu Ngọ, Nguyễn Đức Trọng đỗ sinh đồ khoa Kỉ Hợi... (và 23 người nữa).

Tóm lại, các bia văn chỉ của thôn Thổ Hà, trừ 2 bia dựng ban đầu như đã nói ở trên ra, số còn lại không nhiều thì ít đều có ghi tên các vị đỗ đạt của thôn mình.

Tại Văn chỉ thôn Yên Viên có 3 bia: Văn hội bi kí 文 會 碑 記 (N.23953-54), do Đốc học bản tỉnh Ngô Quang Tuấn soạn, tạo năm Tự Đức 13 (1860), cho biết: Xã Yên Viên xưa đã có văn chỉ, nhưng còn nhỏ hẹp, nay đổi ruộng, đổi ao mở rộng thêm, nhân mời ta viết bài kí. Ta thấy bên cạnh văn chỉ cũ đã có bia rồi, vậy còn biết viết gì đây ? Nhưng thấy văn chỉ được sửa sang đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, lại những người trong ấp đóng góp để hoàn thành công việc, chưa được ghi tên, vậy nay xin kê: Diêm Trần Thanh (Khóa sinh kì lão), Nguyễn Công Chính, Nguyễn Thế Khoa (hương lão), Nguyễn Đình Dược (hương lão), Nguyễn Đức Thanh (hương trưởng), Nguyễn Đình Tuấn (học sinh)... và 86 người nữa, mỗi người cung tiến 2 quan tiền, trong đó, 9 người cúng ruộng. Vậy bia không kê tên người thi đỗ, còn tấm bia mà Ngô Quang Tuấn nói “đã có bia cũ” trên, có thể là bia Từ vũ bi kí 祠 宇 碑 記 (N.8393-95) tạo năm Cảnh Hưng 6 (1745), nói việc thôn Yên Viên bắt đầu xây dựng văn chỉ, trong đó kê tên 15 người trong thôn đỗ trung khoa: Nguyễn Bá Tuấn, đỗ khoa ất Mão; Nguyễn Khiêm Cẩn, đỗ khoa (mờ); Nguyễn Đăng Đào, đỗ khoa Đinh Dậu; Diêm Đăng Thắng, đỗ khoa Bính Ngọ; Dương Quốc Bật, đỗ khoa Nhâm Tí; Diêm Đắc Vĩ, không ghi năm đỗ; Nguyễn Bá Cần, không ghi năm đỗ; Nguyễn Công Sự đỗ khoa ất Mão; Diêm Đăng Hiên, đỗ khoa Mậu Ngọ; Nguyễn Bá Du, đỗ khoa Tân Dậu; Đỗ Đăng Hoán, không ghi năm đỗ; Dương Danh Khuê, không ghi năm đỗ; Nguyễn Duy Viên, không ghi năm đỗ; Dương Danh Khôi, không ghi năm đỗ; Nguyễn Viết Bình, không ghi năm đỗ. Người đỗ đời trước có dự vào việc làm từ vũ: Sinh đồ Tạ Đình Tán. Người đỗ đời trước không kịp đóng góp, gia đình đóng góp thay: Giám sinh Nguyễn Sĩ, Sinh đồ Nguyễn Tuấn Tài, Sinh đồ Diêm Đăng Cao, Sinh đồ Nguyễn Đức Nghiệp, Sinh đồ Nguyễn Phi Cơ, Sinh đồ Nguyễn Đắc Trạch.

Như thế, số người đỗ trung khoa của thôn Yên Viên cũng khá nhiều. Nhưng cũng như thôn Thổ Hà, ở Yên Viên vẫn chưa có người đỗ đại khoa. Và với số người đỗ trung khoa như đã kê ở trên, người Yên Viên cho rằng, ấp ấy ở vùng giữa, ít người khai khoa là do không chịu mở mang trường học. Bởi vậy, vào năm Tự Đức 23 (1870), đã mở trường tại thôn cho con em họ học tập. Bia Thục xá bi kí 塾 舍 碑 記 (N.23949), để tại văn chỉ của thôn đã nói rõ điều đó.

Văn khắc tại các từ đường dòng họ ở Việt Yên, ngoài việc ghi lại các phả hệ, những hành trạng, những quy ước chung của dòng họ... còn ghi lại những vị đỗ đạt làm rạng danh cho dòng họ mình, như họ Dương thôn Vân Cốc, xã Vân Trung (hiện có 6 bia), cho biết: Họ Dương xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang từ Hải Đông, nơi vốn có người xuất thân văn khoa, chuyển tới. Riêng chi Bắc Giang sinh ra tướng võ, có người làm nên... đến nay đã chia ra 3 chi... Nay 3 chi họp lại xây cất từ đường để hàng năm, vào 10 tháng Giêng cùng họp mặt tại từ đường mua lễ vật kính tế tiên tổ (Dương tộc bi kí 楊 族 碑 記 (N. 31319).

Hay bia của dòng họ Chu Bá thôn Đông Long, xã Quang Minh cho biết truyền thống thi thư của họ mình: Họ ta, các đời trước không thể kê khảo tường tận, nhưng những điều còn thấy được là từ cụ Huyện thừa huyện Vĩnh Khang, sinh hạ được 2 người con, con trưởng đỗ khoa thi Hội, con thứ lãnh chức Hương tiến. Từ đó đời đời khoa mục, không dứt. Khoảng giữa, bỗng gặp vận không may, gia phả bị cháy, từ đường lại bị hủy hoại, vinh danh hiển hiệu của tiên quân dường như bị mai một. Năm Bính Tí, bản tộc ngay nơi nền cũ, xây lại ngôi từ đường, để hàng năm xuân thu tế tự. Việc xong, khắc thế thứ duệ hiệu vào bia: Tổ: Huyện thừa thụy Đoan Nghị, Tỉ: Hoàng Thị hiệu Từ Nghi. Tông: Hương cống tự Quảng Huệ. Tằng tôn: Hương cống, tự Thiện Kế. Tôn: Hương cống tự Hoằng Thạc. Tôn: Hương cống tự Ôn Hòa. Tôn: Hương cống tự Ước Trai. Tử: Tiến sĩ thụy Trung Mẫn. Tôn: Hương cống tự Đôn Phác. Tằng tôn: Hương cống tự Giản Tín... (Chu tộc bi kí 朱 族 碑 記 N.31183-84, tạo năm Tự Đức 36, 1883). Lại biển gỗ (N.41202), khắc năm Khải Định Quí Hợi (1923), hiện để tại thôn Đình Cả, xã Quang Minh, cho biết thêm: Bản thôn tôn cụ Chu tướng công là Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, đời Vĩnh Trị nhà Lê, Phó đô ngự sử, lãnh Đốc trấn Cao Bằng, tặng Lễ bộ Tả tham tri, làm tiên hiền. Tiếp đó, kê tên các vị họ Chu được phối hưởng:

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Tri huyện huyện Yên Thế.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Binh bộ viên ngoại lang.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Tri huyện huyện Bảo Lộc.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Tri huyện huyện Yên Thế.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Tri huyện huyện Hiệp Hòa.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Lại bộ viên ngoại lang.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Khảo tướng sĩ lang giảng dụ.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Tri huyện huyện Vĩnh Khang.

- Chu tướng công, Hương cống đời Lê, Tri huyện huyện Vũ Tiên v.v

Ở Việt Yên, người đỗ đại khoa cũng nhiều, tiêu biểu là thôn Yên Ninh, xã Hoàng Ninh, có tới 11 người đỗ đại khoa, người khai khoa là Thân Nhân Trung, đỗ vào đời Hồng Đức, nửa cuối thế kỉ XV, nhưng trong văn khắc ở địa phương không thấy ghi lại. Vả, ở Yên Ninh không thấy có văn chỉ, còn ở các dòng họ có những người đỗ cao thì văn bia bị phá hủy hầu hết. Còn những vị đỗ trung khoa thì khá nhiều, trên đây chỉ nêu một số tiêu biểu.

2. Văn khắc viết về những vị có chức sắc. Đó là những bia kể về thân thế sự nghiệp, hoặc những đóng góp tiền của của các vị quan chức có địa vị trong xã hội như quan trong triều hay ngoài trấn, phủ, huyện, hoặc các vị thái giám... để xây cất, sửa chữa các lăng tẩm, từ đường, đình, đền, miếu mạo...

Tại từ đường thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến kể câu chuyện về một vị họ Nguyễn đi sứ, bỏ mình trên đất khách. Đó là ông Tán trị công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Ti lễ giám Tả thiếu giám, tặng Thái giám Tăng Thọ hầu, Nguyễn Tướng công, húy Đức Vinh, người xã Phúc Tằng, huyện Yên Dũng, là Nội sai Binh phiên, năm Giáp Ngọ, gặp kì cống sứ, ông 48 tuổi, phụng chỉ làm Giáp bộ nội sai đi sứ Bắc. Khi lên đường, được ban tặng bài thơ Ngự chế bằng Quốc âm. Ngày 16 tháng 11, năm ất Mùi, sứ bộ đến trạm Hoài Âm, huyện Sơn Dương, tỉnh Giang Nam, ông không may qua đời, phải chôn cất bên sông, cạnh một ngôi chùa. Năm Bính Thân, sứ bộ trở về, đưa linh cữu về nước, quan san xa xôi, đường đi vất vả, vượt sông Hoàng Hà mà không có sóng, qua Quảng Lĩnh như đi trên đất bằng, hồn yên phách thỏa, an toàn trở về quê hương.

Lần đi sứ ấy, người em của ông là Quang tiến thận lộc đại phu, Huyện thừa huyện Kim Hoa, Phúc Thọ nam Nguyễn Đức Thành, tình nguyện xin làm tùy nhân, khi anh mất, đã chôn cất, làm dấu cẩn thận, để đến năm Bính Thân trở về, đưa di hài của anh về nước Phụng vãng Bắc sứ bi 奉 往 北 使 碑 (N.31226-29), tạo năm Vĩnh Thịnh 13 (1717).

Bia dòng họ kể lai lịch nhân vật, thì có Thực lục hoàng công bi 實 錄 黃 公 碑 (N.9851; N.23773), tạo năm Chính Hòa 13 (1692), dựng tại đền thờ Hoàng Tướng công ở Yên Ninh xã Hoàng Ninh, trong đó kể khá tỉ mỉ: Hoàng Tướng công, húy Công Phụ, sinh năm Đinh Mão (1627), con cụ Hoàng Công Minh, mẹ Đào Thị Chẩn. Từ nhỏ chuyên thi thư, có tài văn học. Năm 19 tuổi đậu Hương tiến, nhưng tiếp sau, các khoa thi Hội đều không đạt. Đến năm 53 tuổi mới đậu Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1619), được bổ chức Giám sát ngự sử, Lễ khoa cấp sự trung. Năm Quý Hợi (1623) xảy ra sự biến trong Vương phủ, vì có công giúp chúa Trịnh Tráng, nên được phong Dực vận công thần, được cấp 50 quân tùy hành. Năm Mậu Thìn (1628) thăng chức Tham chính Hải Dương. Năm Canh Ngọ (1630) vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, khi trở về được thăng chức Binh bộ Tả thị lang. Năm Nhâm Ngọ (1642) kiêm chức Quốc tử giám tư nghiệp. Năm Giáp Thân (1644), ngày 23 tháng 8, qua đời, thọ 78 tuổi. Sau khi mất, được truy tặng tước Lộc quận công. Năm Kỷ Tỵ (1689) dân bản xã dựng đền thờ, lập bia ghi lại sự nghiệp của ông để hậu thế tưởng vọng.

Văn khắc nói về các vị có chức sắc ở Việt Yên khá nhiều, nhưng kể được tỉ mỉ về thân thế sự nghiệp của từng vị thì không có là bao, số còn lại tuyệt đại đa số nói đến sự đóng góp của mình vào việc sửa chữa đình chùa, hay giúp đỡ tài chính cho dân để chi phí việc công... mà được bầu hậu.

Văn khắc tại lăng mộ, từ chỉ, thường chỉ viết về các Thái giám, ở đây chủ yếu nói về việc xây cất lăng mộ, từ chỉ, còn thân thế sự nghiệp của các vị đó cũng chỉ được kể lại một cách sơ lược, có chăng, những tước vị của họ thì được ghi lại khá đầy đủ.

Tại Việt Yên có các lăng tẩm chủ yếu và một số bài văn bia tiêu biểu sau đây:

- Lăng xã Đoan Bái có bia Đoan Bái xã lăng bi kí 端 沛 社 陵 碑 記 (N.6307-10), tạo năm Bảo Thái 4 (1723) viết về Thái giám họ Hà, tước Cấp Vũ hầu và vợ họ Đặng...

- Lăng Mi Điền (xã Hàng Ninh), có bia Ngô gia từ chỉ bi kí 吳 家 祠 址 碑 記 (N.9554-57), tạo năm Chính Hòa 7 (1686) và Bản đình phụng sự Ngô gia bi kí 本 亭 奉 事 吳 家 碑 記 (N.9950-53), tạo năm Chính Hòa 13 (1692), đều viết về Tổng Thái giám họ Ngô, tước Dũng quận công.

- Lăng Ninh Khánh (xã Hoàng Ninh) có [Hậu Thần bi] (N.9843-46), tạo năm Đức Nguyên 2 (1675), viết về Thân Công Tài, tước Hán quận công. Liên quan đến Thân Công Tài, tại Đình Phúc Long (xã Tăng Tiến) có bia Phúc Long xã Hậu Thần bi 福 隆 社 後 神 碑 (N.9962-67), và ở Hùng Lãm (xã Hồng Thái) có Hùng Lãm xã Hậu Thần bi 雄 攬 社 後 神 碑 (N.9972-77).

- Lăng họ Thân thôn Phúc Tằng (xã Tăng Tiến) có Thân lệnh công chi bi 申 令 公 之 碑 (N.9946-49), tạo năm Vĩnh Thịnh 7 (1711), về Thái giám Thân Đắc Thọ, tước Bái Thọ hầu.

- Từ chỉ thôn Quang Biểu (xã Quang Châu) có Từ đường bi kí 祠 堂 碑 記 (N.31175-78), tạo năm Vĩnh Thịnh 8 (1712) về Đô thái giám Quán Phương hầu Nguyễn Thế Nho; và bia không có đầu đề (N.31179), tạo năm Chính Hòa 23 (1702) về Thái giám họ Nguyễn, tước Quý Đường hầu...

Nhưng ở Việt Yên, bia về Thái giám không chỉ dựng tại từ chỉ, lăng mộ, mà còn được dựng tại các đình, đền, miếu... Nhân đây, thống kê toàn bộ số bia về các vị Thái giám và các vị chức sắc khác hiện có ở Việt Yên, để tiện theo dõi (Biểu II).

3. Văn khắc viết về Thành hoàng (Thánh tích, ngọc phả). Loại này thường là những tấm bia, hoặc biển gỗ dựng tại đình, đền, miếu, nghè, điếm..., niên đại tạo tác thường muộn, nhưng nội dung được khắc lại đầy đủ như văn bản Nguyễn Bính hoặc Lê Tung soạn trước đây, như: Thần tích để tại đình thôn Hoàng Mai, xã Hoàng Ninh, (N.31098-99), tạo năm Khải Định 4 (1919) do Nguyễn Bính soạn, Nguyễn Hiền sao lại, nói về nàng công chúa thứ 8 của vua Lê Thánh Tông, tên Thiều Nương có công đánh giặc Chiêm, được phường Hoàng Mai thờ làm Thành hoàng.

Hay tại đình thôn Thổ Hà, xã Vân Hà, có Cung sao thánh tích 恭 抄 聖 跡 (N.23803) do Lê Tung phụng soạn, Nguyễn Hiền phụng sao theo bản cũ, nội dung kể rằng: Cuối đời Hùng Vương, có người phương Bắc đến ở chùa Đoan Minh, trang Thổ Hà, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc. Người ấy ban đêm giảng độc, tự có sức lực như thánh như thần. Biết tiếng, bản trang phần lớn cho con em mình đến học... Trong vùng có giặc mũi đỏ, sau khi bị tiêu diệt, chúng thường gieo bệnh dịch. An Dương Vương có hịch truyền tìm người tài giỏi đến diệt. Ông ứng tuyển, diệt được nạn dịch, được nhà vua triệu về kinh ban thưởng, ban cho thực ấp ở huyện Yên Việt...

Còn ở nghè Phúc Tằng, thôn Xóm Chùa, xã Tăng Tiến có thần tích (N.31224-25), do Nguyễn Bính 阮 炳 soạn, Nguyễn Hiền 阮 賢 sao, Lí trưởng bản xã Lê Văn Hinh 黎 文 馨 phụng tả năm Tự Đức 29 (1876), kể về các vị Thành hoàng Phúc Tằng âm phù giúp vua Trần đánh thắng giặc Chiêm, như:

- Cung Thành Phương Dung tôn linh Công Chúa.

- Đương cảnh Thành hoàng Quí Minh Đại Vương.

- Đương cảnh Thành hoàng Quảng tế Đại Vương.

- Đương cảnh Thành hoàng Thánh Đức Đại Vương (và 3 vị nữa).

Có biển gỗ để tại đình thôn Vân Cốc, xã Vân Trung, khắc Hoàng triều ngọc phả 皇 朝 玉 譜 (N. 31295). Lê triều Lễ bộ Thượng thư, quản giám tri điện phụng sao, tạo năm Bảo Đại thứ 19 (1944), văn bia cho biết: Cao Sơn, Quí Minh Đại Vương là thiên thần rất hiển ứng, được 372 nơi lập miếu thờ. Miếu thờ 2 vị ở trang Vân Cốc dưới chân núi Nham Biền cũng rất linh ứng. Lí Thái Tông cất quân đi đánh Ai Lao, đến cầu đảo tại miếu này đã được âm phù đánh thắng giặc...

Tại miếu trang Tiên Lát, xã Tiên Lá (nay xã Tiên Sơn, Việt Yên) có Thánh tích bi ký 聖 跡 碑 記 (N.8387-88), không ghi tên người soạn, viết và khắc. Tạo năm Tự Đức 8 (1855). Ghi sự tích Hùng Thạch Đại Vương: Hùng Thạch tướng quân là con ông Nguyễn Hòa và bà họ Cao. Mẹ ông được sơn thần báo mộng, có thai ba năm hai tháng thì sinh ra ông. Vừa lúc trong nước có giặc, vua sai sứ giả cầu người tài cứu nước. Hùng Thạch Tướng quân cho gọi sứ giả vào nhà, bảo về tâu xin nhà vua tạc voi đá, cờ đá sẽ đánh tan được giặc. Hùng Thạch vươn vai đứng dậy thành người cao lớn khác thường rồi phi ngựa đá ra trận. Đánh tan giặc, Hùng Thạch tướng quân bay lên gò núi mà hóa. Trải qua các đời đều được phong tặng mỹ tự và được lập miếu để dân sở tại bốn mùa thờ cúng.

Như vậy, với chừng ấy thần tích được khắc lên đá, biển gỗ ở Việt Yên, mách bảo, muốn tìm hiểu về thần tích nói chung, thần tích Bắc Giang nói riêng, thì mảng văn khắc cũng góp một tiếng nói quan trọng, không nên bỏ qua.

Trên đây là mấy nét chính văn khắc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Ngoài ra, văn khắc Việt Yên cũng như văn khắc nhiều nơi khác, như mọi người đều biết, còn phản ánh nhiều mặt khác, như về sinh hoạt cộng đồng làng xã, về tập tục, về lệ làng... mà bài viết này không thể đề cập đầy đủ được.

Hà Nội tháng 5-2001.

BIỂU I

TT Tên bia Nơi để Kí hiệu Ghi chú
Đợt I Đợt II
1 Tam bảo thị Phúc Quang tự. Chùa Phúc Quang, x. Dương Huy (Nay xã Trung Sơn, h. Việt Yên). N. 8365 N. 23778-79
2 Hậu Phật bikí. Chùa xã Điêu Liễn, h. Yên Dũng (Nay xã Hồng Thái, h. Việt Yên). N. 7062-65 N. 31109-11
3 Nguyễn Công tạo bi Đình xã Giá Sơn (nay xã Ninh Sơn, h. Việt Yên). N. 6201 N. 31133
4 Thiên đài thạch trụ bi. Chùa xã Giá Sơn (nay thuộc xã Ninh Sơn, h. Việt Yên). N. 6024-07 N. 31122-25
5 Hậu thần bi kí. Chùa xã Giá Sơn (nay xã Ninh Sơn, h. Viêt Yên). N. 6202-03 N. 31129-32
6 Hưng công tạo chúc hương đài Chùa xã Khả Lý (nay xã Quang Minh, h. Viêt Yên). N. 6197-00 N. 31189-92
7 Điền Công bi. Lăng Thân tướng công, xã Ninh Khánh (nay xã Hoàng Ninh, h. Việt Yên). N. 9843-46 N. 23767-68
8 Thân Công bi. Đền xã Phúc Long, Yên Dũng (nay xã Tăng Tiến, h. Việt Yên). N. 7069-71 N. 31214-17
9 Phúc Long xã Hậu thần bi. Đình xã Phúc Long (nay thuộc xã Tăng Tiến, h. Việt Yên). N.9962-67 N. 31233-38
10 Thân Lệnh công chi bi. Lăng Thân lệnh công, xã Phúc Tằng (nay xã Tăng Tiến, h. Việt Yên). N. 9946-49 N. 31230
N. 31231
N. 31232
Cùng bia, 3 kí hiệu riêng
11 Phụng sự bi kí. Đình Quang Biểu, h. Yên Dũng (nay xã Quang Châu, h. Việt Yên). N. 7152-55 N. 31171-74
12 Hậu Phật bi kí. Chùa xã Quang Biểu, h. Yên Dũng (nay Quang Châu, h. Việt Yên). N. 7160-61 N. 31155
13 Hậu Phật bi kí. Đình xã Quang Biểu, h. Yên Dũng (nay Quang Châu, h. Việt Yên). N. 7166-69 N. 31151-54
14 Hậu thần bi kí Đình xã Quang Biểu, h. Yên Dũng (nay Quang Châu, h. Việt Yên). N. 7170-71 N. 31160-63
15 Văn thuộc giáp tự miếu bi. Văn chỉ xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 8369 N. 23826
16 Thủy tạo đình miếu bi. Miếu xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 6244-45 N. 23811-12
17 Tư văn giáp. Văn chỉ xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà). N. 8403-05 N. 23819-21
18 Thủy tạo từ vũ thạch bi. Văn chỉ xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà). N. 8370-71 N. 23824-25
19 Văn thuộc tái tự thánh hiền tự miếu bi. Văn chỉ xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà). N. 8372-74 N. 23822-23
20 Tạo từ vũ bi. Văn chỉ xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà). N. 8375-76 N. 23816
21 Tôn sùng thánh hiền đạo đại. Văn chỉ xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 8377-78 N. 23818
22 Tiên hiền tự miếu bi. Văn chỉ xã Thổ Hà (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 8385 N. 23817
23 Thổ Hà xã tam quan tự bi. Đình xã Trung Đồng, huyện Yên Dũng (nay xã Vân Trung, h. Việt Yên). N. 6236-39 N. 23785-88
24 Hậu thần bi kí. Miếu thôn Nội An, xã Vân Cốc (nay xã Vân Trung, h. Việt Yên). N. 7015-16 N. 31258-59
25 Hậu thần bi kí. Điếm thôn Lũng, xã Vân Cốc (nay xã Vân Trung, h. Việt Yên). N. 9930-31 N. 31302
26 Hậu thần bi kí. Điếm đình xã Vân Cốc (nay xã Vân Trung, h. Việt Yên). N. 9928-29 N. 7019-20 N. 31327-28
27 Hậu thần bi kí Đền thờ Hoàng Tướng công xã Yên Ninh (nay xã Hoàng Ninh). N. 7021-23 N. 31292-94
28 Ngũ lão bi kí. Chùa xã Yên Viên (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 7024-25 N. 31296-99
29 Thực lục Hoàng công bi Chùa xã Yên Viên (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 9851 N. 23773
30 Diên Phúc tự hậu bi. Chùa xã Yên Viên (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 6227-29 N. 23835
31 Cổ tích danh lam Diên Phúc tu tạo tác thạch giai. Chùa xã Yên Viên (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 6230-31 N. 23926
32 Diên Phúc tự tân tạo hậu đường bi kí. Chùa xã Yên Viên (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 6234-35 N. 23846
33 Đoan Minh tự tạo thạch lộ bi kí. Chùa Diên Phúc, xã Thổ Hà (nay x. Vân hà, h. Việt Yên). N. 6242-43 N. 23845
34 Bản giáp hậu bi. Điếm giáp Thượng, xã Yên Viên (nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 8389-90 N. 23832
35 Từ vũ bi kí. Văn chỉ xã Yên Viên ( nay xã Vân Hà, h. Việt Yên). N. 8393-95 N. 23929-31

Biểu II

TT Tên bia Kí hiệu Nơi để Năm tạo Tên, tước
1 Tam bảo thị Phúc Quang tự. N. 8365; N. 23778-79 Chùa Phúc Quang, xã Dương Huy (nay xã Trung Sơn) Dương Đức 2 (1673). Đô thái giám Liêu Đình hầu, Vũ tướng công.
2 Đoan Bái xã lăng bi kí. N.6307-10 Lăng xã Đoan Bái (nay xã Đoan Bái, h. Việt Yên). Bảo Thái 4 (1723). Thái giám Cấp Vũ hầu, Hà tướng công.
3 Thiên đài thạch trụ N.6304-07; N.31122-25 Chùa xã Giá Sơn (nay xã Ninh Sơn, h. Việt Yên). Vĩnh Thịnh 6 (1710). Ti lễ giám Khuê Lộc bá Nguyễn Viết Quý.
4 Hậu thần bi kí N.6202-03 N.31129-32 Chùa x. Giá Sơn (nay xã Ninh Sơn, h. Việt Yên). Vĩnh Thịnh 6 (1710) Ty lễ giám Hữu giám Cống Xuyên hầu Đàm Cảnh Niên.
5 Bản đình phụng sự Ngô gia bi kí. N.9950-53 Mộ Ngô Đạt Dung, xã Mi Điền (nay xã Hoàng Ninh, h. Việt Yên). Chính Hòa 13 (1692) Tổng thái giám Đề đốc Dũng quận công, Ngô lệnh công.
6 Ngô gia từ chỉ bi kí. N.9554-57 Lăng Ngô tướng công, xã Mi Điền (nay xã Hoàng Ninh, h. Việt Yên). Chính Hòa 7 (1686) Tổng thái giám, Nhượng quận công, Ngô lệnh công.
7 Phúc Lâm xã đình bi kí. N.9855-58 Đình xã Phúc Lâm (nay xã Hoàng Ninh, h. Việt Yên). Chính Hòa 14 (1693) Tổng thái giám Đoan Lộc hầu, tặng Đoan quận công, Đỗ lệnh công.
8 Thân công bi N.7069-71 N.31214-17 Đền xã Phúc Long (nay xã Tăng Tiến, h. Việt Yên). Chính Hòa 7 (1686) Thân tướng công, tặng Thái giám, Bổng Lộc hầu.
9 Phúc Long xã đình bi N.9958-61 Đình xã Phúc Long (nay xã Tăng Tiến, h. Việt Yên). Chính Hòa 7 (1686) Nội phủ giám Chưởng giám, Nhuệ quận công Lê tướng công.
10 Phụng sự hầu thần bi kí N.9942 Đình xã Phúc Tằng (nay xã Tăng Tiến, h. Việt Yên). Vĩnh Thịnh 13 (1717) Ti lễ giám Tả thiếu giám, tặng Thái giám, Tăng Thọ hầu Nguyễn Đức Vinh.
- Phụng vãng Bắc sứ N.31226-29 Nhà thờ họ Nguyễn thôn Phúc Tằng (nay xã Tăng Tiến, h. Việt Yên). Vĩnh Thịnh 13 (1717) nt
11 Thân lệnh công chi bi N.9946-49 N.31230 N.31231 N.31232 Lăng Thân lệnh công xã Phúc Tằng (nay xã Tăng Tiến, h. Việt Yên) Vĩnh Thịnh 7 (1711) Thị nội giám, Ty lễ giám Bái Trạch hầu Thân Đắc Thọ.
12 Tự sự hậu thần bi văn N.9863-64 Từ đường Nguyễn tướng công, xã Quang Biểu (nay xã Quang Châu, h. Việt Yên). Chính Hòa 1 (1680) Thái giám Liễu Cơ hầu, Nguyễn Tuấn Nghĩa.
13 Phụng sự bi kí N.7152-55 N.71171-74 Đình xã Quang Biểu (nay xã Quang Châu, h. Việt Yên). Chính Hòa 21 (1700) Thái giám Quán Đường hầu Nguyễn Thế Nho.
- Công đức tính danh bi kí N.7180 Chùa xã Quang Biểu (nay xã Quang Châu, h. Việt Yên). Không ghi nt
- Hậu Phật bi kí N.7166-69 N.31151-54 Chùa xã Quang Biểu (nay xã Quang Châu, h. Việt Yên). Vĩnh Thịnh 8 (1712) nt
- Hậu thần bi kí N.7170-71; N.31160-63. Đình xã Quang Biểu (nay xã Quang Châu, h. Việt Yên). Cảnh Hưng 20 ( 1759 nt
14 Hậu thần bi kí N.9932-33 Điếm thôn Lũng, xã Vân Cốc (nay xã Vân Trung, h. Việt Yên) Chính Hòa 23 (1702) Ti lễ giám, Tả giám thừa, Lân Duệ hầu Nguyễn công, húy Thụy.
- Ngũ lão bi kí N.7024-25 N.31296-99 Điếm đình xã Vân Cốc (nay xã Vân Trung, h. Việt Yên). Chính Hòa 23 (1702) nt
15 Hậu thần bi kí N.9934-35 N.7030-31 Điếm thôn Lũng, xã Vân Cốc (nay xã Vân Trung, h. Việt Yên). Cảnh Hưng 36 (1775) Tổng thái giám Đán Trung hầu Đoàn Đăng Đán.
- Hậu thần bi kí N. 3149-50 Đình thôn Bài Xanh, xã Vân Trung, h. Việt Yên. Cảnh Hưng 31 (1770) nt
- Hậu thần bi kí N.7015-16 N.31258-59. Đình xã Trung Đồng, Yên Dũng (nay xã Vân Trung, h. Việt Yên). Cảnh Hưng 34 (1773) nt
16 Hậu thánh bi kí N. 31169-70 Đình thôn Quang Biểu, xã Quang Châu, h. Việt Yên. Vĩnh Thịnh 15 (1719) Tổng thái giám Quán quận công, Nguyễn Ôn Hậu
17 [Vô đề] N. 31179 Từ chỉ thôn Quang Biểu, xã Quang Châu, h. Việt Yên. Chính Hòa 23 (1702) Thái giám Quý Đường hầu, Nguyễn c♦ông.
18 Trùng tu Sùng Quang tự bi N. 31222-23 Nghè thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, h. Việt Yên. Đức Long 3 (1631) Tổng thái giám Dương Nghĩa hầu Thân Thạc Vọng
19 Phúc thần tứ tòa chi N. 31270-73 Thôn Bài Xanh, xã Vân Trung, h. Việt Yên. Chính Hòa 13 (1692) Tổng thái giám gia tặng Vân quận công.

CÁC VỊ CHỨC SẮC KHÁC

1 Phúc Khánh tự hậu thần bi kí N.6219-20 Đình xã Dĩnh Sơn (nay xã Trung Sơn). Chính Hòa 8 (1687) Phú Nham hầu, Lê tướng công.
2 Hùng Lãm xã hậu thần bi N.9972-77 Đình xã Hùng Lãm (nay xã Hồng Thái). Chính Hòa 9 (1688) Hán quận công Thân Công Tài.
3 Điền công bi N.9843-46 Lăng Thân tướng công, xã Ninh Khánh (nay xã Hoàng Ninh). Đức Nguyên 2 (1675) nt
4 Phúc Long xã hậu thần bi N.9962-67 Xã Phúc Long (nay xã Tăng Tiến). Chính Hòa 3 (1682) nt
5 Phụng vãng Bắc sứ N.9943 Xã Phúc Tằng (nay xã Tăng Tiến). Vĩnh Thịnh 13 (1717) Ng. Đức Thành Huyện thừa.
6 Tuỳ vãng Bắc sứ N.9941 Xã Phúc Tằng (nay xã Tăng Tiến). Vĩnh Thịnh 14 (1718) Thừa chánh sứ Nguyễn quý công.
7 Tân kết Phượng Sơn hậu hiền bi kí N.8381-84 Xã Thiết Phương (nay xã Minh Đức). Cảnh Hưng 26 (1765) Khuê quận công Nguyễn Khoan.
8 Hậu thần bi kí N.9928-29 Xã Vân Cốc (nay xã Vân Trung). Cảnh Hưng 44 (1783) Tả đô đốc Thái bảo Đoàn Đài công
9 Hậu thần bi kí N.7021-23 Xã Vân Cốc (nay xã Vân Trung). Cảnh Hưng 35 (1772) Phụ quốcThượng tướng công Hiển quận công.
10 Hoàng tướng công bi kí N.9852-54 Xã Yên Ninh (nay x.Hoàng Ninh). Chính Hòa 13 (1692) Công bộ Thượng thư Hoàng tướng công.
11 Vô đề N.23769-72 Thôn Yên ninh, xã Hoàng Ninh. Chính Hòa 13 (1692). Công bộ Thượng thư Lộc quận công.
12 Nguyễn gia hậu thần bi kí N.31165-68 Thôn Quang Biểu, xã Quang Châu Chính Hòa 7 (1686). Chẩn quận công Vương phủ cai quan.
13 Bài vị N.31213 Thôn Phúc Long, xã Tăng Tiến. Khôngghi. Nhuệ quận công.
14 Hương Phúc đường vạn niên thọ N.31233-38 Thôn Thượng Phúc, xã Tăng Tiến. Chính Hòa 3 (1682). Thị vệ xứ Vũ Xuyên hầu Thân Công Tài.
15 Hậu thần bi kí N.31239-40 Thôn Bài Xanh, xã Vân Trung. Cảnh Hưng 42 (1781). Đoàn Đài công.
16 Nguyễn thế gia lưu trạch bi N.31254-57 Thôn Bài Xanh, xã Vân Trung. Vĩnh Thịnh 8 (1712). Toàn Trung hầu Nguyễn lệnh công.
17 Vô đề N.31314-15. Thôn Bài Xanh, xã Vân Trung. Cảnh Hưng 35 (1774). Phụ quốc Thượng tướng quân Hiển quận công.
18 Từ đường bi kí N.31329 Họ Đoàn thôn Vân Cốc, xã Vân Trung. Tân Sửu ? Đoàn Đài công.

TB

THẤY GÌ KHI ĐỌC BÀI THƠ
“ĐÊM THU NGHE QUẠ KÊU” CỦA QUÁCH TẤN

HOÀI YÊN

Trong thế kỷ 20, Quách Tấn như một ngôi sao trên bầu trời ảm đạm của thơ Đường luật. Cái hay của thơ Đường luật Quách Tấn, ngày nay lớp hậu sinh chúng ta khỏi phải bàn luận. Chúng ta tiếp nhận nó như một sự thực hiển nhiên. Vì đã biết bao bậc tiền bối tài hoa như Tản Đà, Hoài Thanh, Bích Khê, Chế Lan Viên... đã ca ngợi và khẳng định.

Để tự đánh giá về thơ mình, cụ Quách Tấn đã dẫn lời của Tản Đà tiên sinh như sau:

“Trong số Tiểu Thuyết Thứ Bảy ra ngày 5/1/1935, bàn về cái vẻ hay của thơ, tiên sinh nói: Cứ tôi xem ra: Thơ cụ Nguyễn Khuyến hay ở vẻ phóng túng, thơ ông Tú Xương hay ở vẻ sâu sắc, thơ Bà Huyện Thanh Quan hay ở vẻ nề nếp; thơ vịnh sử thì ông Tôn Thọ Tường hay, thơ tả cảnh thì ông Quách Tấn hay, thơ tả tình thì Hồ Xuân Hương hay” (Quách Tấn - Bóng ngày qua - tr.173 - Nxb. Hội nhà văn 1999).

Đánh giá này thật đúng vì cả tập thơ Mùa cổ điển 36 bài thì đại bộ phận là thơ tả cảnh. Mà chính Mùa cổ điển chứ không phải cái gì khác đã làm nên danh tiếng của nhà thơ Quách Tấn.

Trong bài viết này tôi chỉ xin nêu lên một số điều thấy và nghĩ khi đọc bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu của tác giả Quách Tấn

ĐÊM THU NGHE QUẠ KÊU
Từ Ô Y hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng...
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương Sông Bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi,
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang...(1)

Đây là bài thơ được chính tác giả Quách Tấn thích nhất. Cụ phát biểu: “Tôi thích nhất không phải vì Đêm thu nghe quạ kêu là bài thơ hay nhất, hoặc là vì được làng văn chương nói đến nhiều, nhưng chính vì ngậm chứa nhiều kỷ niệm đau đớn lẫn êm đềm”(2)

Bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu cũng nhận được nhiều sự khen chê trái ngược nhau và càng khen chê tranh cãi thì bài thơ càng thêm nổi tiếng. Về điều này cụ Quách Tấn tâm sự: “Bài Đêm thu nghe quạ kêu là một bài được khách làng thơ, làng văn nhắc đến nhiều nhất. Trong các sách báo hễ nói đến thơ tôi thì hầu hết các tác giả đều lấy Đêm thu nghe quạ kêu làm tiêu biểu. Đến nỗi có nhiều bạn quen đã gọi bỡn tôi là Đêm thu nghe quạ kêu”(3).

Về khen:

* Người khen đầu tiên phải kể đến Bích Khê. Hễ mỗi lần gặp Quách Tấn, Bích Khê đều đọc bài thơ này sau đó khen bằng một tiếng TUYệT. Bích Khê nói với Quách Tấn: “Chỉ riêng bài Đêm thu nghe quạ kêu và bài Cảm thụ cũng đã giành cho anh một địa vị xứng đáng trong làng thơ đất Việt”(4).

* Hoài Thanh chắc chắn cũng là người khen. Bài bình về thơ Quách Tấn trong Thi nhân Việt Nam chỉ có hơn hai trang mà ông đã dùng ngót một trang nói lên cảm xúc về bài thơ này và trích 4 câu thượng giải để minh họa.

* Tản Đà tiên sinh khen thơ Quách Tấn hay về tả cảnh. Tuy ông không phát biểu riêng về bài thơ này. Nhưng chắc chắn nó phải được nằm trong diện ông khen vì nó là bài thơ tả cảnh tiểu biểu của Quách Tấn.

Ngoài ra còn rất nhiều người khen khác không thể kể hết ra ở đây được.

Về chê:

Theo chính tác giả Quách Tấn cho biết thì kẻ chê cũng khá nhiều. Điển hình là học giả Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại. Quách Tấn dẫn lời chê của Vũ Ngọc Phan như sau: “Ngày nay thơ hay không phải ở sự dùng quá nhiều điển tích như thế, vì khó hiểu không phải là hàm xúc”(5).

Để phản ứng lại, cụ Quách Tấn chê lại cụ Vũ Ngọc Phan: “... Nhưng về thơ, ông không sành thi pháp và tâm hồn “học giả” không đủ sức uyển chuyển để đưa ông vào chỗ vi diệu của thơ” (6).

Như vậy cụ Vũ Ngọc Phan chỉ chê bài Đêm thu nghe quạ kêu là dùng quá nhiều điển tích.

* Ngoài ra còn một số người nữa, trong số đó có cả những bức thư chê một cách khiếm nhã, quá khích. Cụ ví dụ: “Có bài bị gạt chéo với 2 chữ “vô nghĩa” hay “tào lao”. Như bài Đêm thu nghe quạ kêu là một”(7).

Đó là câu chuyện xẩy ra từ hơn 50 năm trước. Nửa thế kỷ qua mọi vấn đề đã được xếp đặt gọn gàng. Lịch sử văn học hầu như đã khẳng định vai trò của Quách Tấn và Mùa cổ điển trong mảng thơ Đường luật của nước ta mà tiêu biểu là bài Đêm thu nghe quạ kêu.

Nửa thế kỷ qua, Mùa cổ điển như một chuỗi ngọc lấp lánh mà hậu sinh chúng ta chỉ nghe nói tới chứ chưa được nhìn thấy ở đâu (chắc chỉ còn trong một số ít cơ quan lưu trữ, và một số tủ sách của các nhà thơ, nhà học giả hầu hết đã qua đời).

Thật may mắn, lớp người hôm nay chúng ta lại được chiêm ngưỡng chuỗi ngọc đó và tiêu biểu là hạt ngọc Đêm thu nghe quạ kêu do Quách Giao sưu tầm và giới thiệu.

Hôm nay, đọc lại bài Đêm thu nghe quạ kêu, chúng ta đâu còn dám khen chê gì nữa. ở đây, trong bài viết này chúng tôi xin được mạo muội nêu lên những điều thấy và điều nghĩ hết sức chân thành của mình. Rất mong được chỉ giáo của các bậc cao nhân.

Trước khi nói đến những điều thấy và điều nghĩ của mình chúng ta hãy tìm hiểu qua nguồn gốc ra đời của bài thơ nổi tiếng Đêm thu nghe quạ kêu, cụ Quách Tấn cho biết:

“Như bài Đêm thu nghe quạ kêu chẳng hạn nguồn cảm xúc khởi động từ năm Đinh Mão (1927), năm ấy tôi đi hốt thuốc cho má tôi. Trời sáng trăng mờ mờ, đi ngang qua bờ sông An Vinh, tôi dậm lên những mo nang khô, làm cho bầy quạ đương ngủ giật mình chớp cánh bay và kêu inh ỏi... Tiếng kêu thành hình giữa đêm vắng, nghe vừa rùng rợn vừa lạnh lùng. Cả mình tôi rởn ốc. Từ ấy tiếng quạ ám ảnh tôi. Rồi trải qua bao nỗi buồn thương của đời tôi, tiếng quạ lịm vào tiềm thức. Đến năm Kỷ Mão (1939) nhân tiếng gọi phở của nhà tôi và của anh Đình, tiếng quạ năm xưa vụt thức dậy trong tâm hồn tôi... Sống trở lại với tiếng quạ trong một thời gian dưới 24 tiếng đồng hồ, tôi sáng tác mấy tiếng đồng hồ, xong bài thơ. Như thế bài Đêm thu nghe quạ kêu thai nghén một giáp tròn và thành hình chỉ trong nửa đêm”(8).

Quách Tấn thì cho biết như vậy. Còn chúng ta thì thấy những gì qua bài thơ trên.

Điều thấy thứ nhất:

Bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu là một bài thơ mẫu mực cho làng yêu “thơ cũ” về cách sử dụng luật thơ để phác họa thiên nhiên, phô diễn ý tưởng, và giãi bày tâm sự. Khen như vậy cũng có nghĩa là khen phò mã tốt áo mà thôi!

Điều thấy thứ hai:

Đọc kỹ bài thơ, đặc biệt là 3 từ đầu tiên Ô Y Hạng làm ta liên tưởng tới một bài thơ cổ của Lưu Vũ Tích đời Đường:

Ô Y HẠNG(9)
Chu Tước kiều biên dã thảo hoa
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà
Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tính gia
Lưu Vũ Tích
(Đường thi)

Dịch thơ

NGÕ ÁO ĐEN
Cỏ hoa dại bên cầu Chu Tước,
Ngõ Ô Y lướt thướt nắng tà.
én lầu Vương, Tạ xưa xa,
Bây giờ bay đậu vào nhà thường dân.
Đinh Vũ Ngọc dịch

Một câu hỏi được đặt ra ở đây: Tại sao tác giả lại nghĩ rằng quạ “từ Ô Y hạng rủ rê sang” ? Trong khi bài Ô Y hạng không hề nói đến quạ.

Về điểm này ông Hoài Thanh viết: “Ô Y hạng nghĩa là xóm áo đen, tên một xóm đời xưa bên Tàu. Xóm ấy có 2 họ Vương, Tạ là hai họ lớn, con cháu thường mặc áo đen. Vậy chữ “ô” không có nghĩa là con quạ. Quách Tấn dùng điển sai !

Còn cụ Phan Khôi viết: “(Mùa cổ điển) có nhiều bài rất hay, nhưng tiếc điển ông dùng trong bài Đêm thu nghe quạ kêu không chỉnh, vì “Ô” là hiệu con én chứ không liên hệ đến quạ”.

Ý kiến của hai nhà học giả trên đây theo chúng tôi là chưa đủ lý lẽ thuyết phục.

Thứ nhất: Quách Tấn của chúng ta rất uyên thâm về Hán học. Ông không thể nhầm lẫn chữ “ô” là đen với chữ “ô” là quạ, càng không thể nhầm lẫn giữa quạ với én.

Một điều nữa, chính Quách Tấn cũng nói: “Tôi dùng điển ô y trong bài Đêm thu nghe quạ kêu không phải vì vô ý hoặc dốt điển, mà chính vì có “sở do”.

Cho đến nay chúng ta cũng chưa biết cái sở do đó của Quách Tấn là gì, còn cái thấy của chúng tôi ngày hôm nay là:

- Quách Tấn dùng cụm từ Ô Y hạng để mở đầu bài thơ của mình xuất phát từ sự sính dùng từ Hán và địa danh Hán.

- Bài thơ Ô Y hạng ám ảnh và chi phối suy tư thơ của ông. Có lẽ đó chính là cái mà ông gọi là “sở do” chăng ?

Bởi vì nếu không phải thế sao ông không dùng một địa danh Việt, vừa dễ hiểu lại vừa chân thực. Nhất là bài thơ đã được thai nghén từ năm 1927 khi ông qua An Vinh gặp quạ ? Thiết nghĩ dùng một địa danh thuần Việt cũng không làm hại gì đến cái hay của bài thơ mà có khi còn thích thú hơn vì tính chân thực của nó. Ví dụ:

“Từ An Vinh phố rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng”...

Dùng từ “An Vinh phố” thay cho từ Ô Y hạng vừa nâng được tính chân thực của thơ (khớp với hoàn cảnh gặp quạ mà ông kể trên) lại tránh được dùng điển sai mà nhiều người chê trách.

Điều thấy thứ ba :

Đọc 4 câu thơ thượng giải:

“Từ Ô Y hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng.
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.”

Lời thơ quá hay, cảnh thu quá đẹp. Nhưng khi đọc kỹ và suy ngẫm khiến ta liên tưởng đến một bài thơ cổ đời Đường. Đó là bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế.

PHONG KIỀU DẠ BẠC (11)
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Trương Kế
(Đường thi)

Dịch thơ:

Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn
K.D

Từ một câu thơ đầu trong bài Phong kiều dạ bạc của Trương Kế “Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên “đã được Quách Tấn khéo léo phát triển thành 4 câu thơ của mình.

Với 2 từ ô đề, ta đã được 2 câu:

“Từ Ô Y hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng”

Với 3 từ sương mãn thiên đã phát triển thành câu thứ 3.

“Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng”

và với 2 từ “nguyệt lạc” đã phát triển thành câu 4

“Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng”

Thật là khéo vậy thay !

Một điều thấy nữa trong giải thơ này có 4 câu thì dùng tới 3 cụm từ Hán Việt. ở đây có lẽ chúng ta cần cùng nhau mở một dấu ngoặc.

Hai cụm từ “Phong Kiều” và “Xích Bích”, chúng tôi chưa nhất trí với cụ Vũ Ngọc Phan cho rằng đây là điển tích, những cụm từ trên dùng trong bài thơ này chỉ là những từ tượng trưng, nó chỉ bất cứ bến nào, sông nào vào một đêm trăng thu... như thế.

Những từ được gọi là điển tích phải là những từ dùng để làm xúc tích thêm ý thơ của bài thơ hay câu thơ.

Ví dụ:

Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây”

Câu của nàng Kiều hỏi Đạm Tiên trong mộng - Đào Nguyên là nơi tiên ở (Lưu Nguyễn lạc Đào Nguyên) và dùng điển tích này ngầm nói vẻ đẹp như tiên của nàng Đạm Tiên.

Hoặc

Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Từ sân Lai là sân của Lão Lai Tử, bảy tám mươi tuổi còn bắt chước trẻ con múa ở sân cho bố mẹ vui. ở đây để chỉ tấm lòng hiếu thảo của Kiều nhớ đến cha mẹ.

Khi một từ hoặc cụm từ được dùng như một điển tích thì không thể thay nó bằng bất cứ từ nào khác được. Đằng này 2 cụm từ Phong Kiều Xích Bích không hề liên quan gì đến tiếng quạ kêu đêm trăng thu, ở đây nó chỉ được dùng như những từ tượng trưng để chỉ bất kỳ một bến nào, sông nào và do đó nó có thể thay bằng bất cứ tên một bến nào, sông nào (của V.N càng dễ hiểu, càng chân thật hơn). Sao không thể dùng “Bến Ninh Kiều” thay cho “Bến Phong Kiều” “Sông Vàm Cỏ” thay cho sông Xích Bích.

Ví dụ:

“Trời bến Ninh Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Vàm Cỏ nguyệt mơ màng”

Hoặc như:

“Trời bến Trung Hà sương thấp thoáng
Thu sông Lệ Thủy nguyệt mơ màng”

Dẫu thay từ Hán Việt bằng từ thuần Việt như thế ý nghĩa câu thơ vẫn nguyên vẹn, hồn thơ vẫn thanh thoát và cũng không hề sai niêm luật.

Vậy thì tại sao Quách Tấn cứ phải dùng Phong Kiều. Bởi vì:

Quách Tấn sính dùng những từ Hán, những địa danh Hán.

Khi suy tư thơ, Quách Tấn đã bị bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế ám ảnh và chi phối. Đến mức ông đã phát triển ý của một câu thơ thành ý của một giải thơ và ông cũng không thể làm ngơ với 2 từ Phong Kiều mà ông ưa thích rồi đưa bằng được nó vào thơ của mình (còn chữ Xích Bích ở đây chẳng qua chỉ là để giải quyết cú đối mà thôi).

Điều thấy thứ tư:

Ta đọc tiếp 2 câu luận

“Bồn chồn thương kẻ nương Sông Bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.”

Vì bài thơ được trích trong “Quách Tấn - Bóng ngày qua” do Quách Giao sưu tầm, có 2 điều đáng tin cậy ở độ chính xác

1. Quách Giao có lẽ là người thân của cụ Quách Tấn

2. Sách in mới nhất, chưa bị tam sao thất bản

Dù tin như vậy, nhưng ở đây chúng tôi xin nêu một nghi vấn về từ Sông Bạc.

Dùng từ Sông Bạc trong 2 câu thơ trên, bất kể người nào hiểu biết về thơ Đường luật đều thấy không ổn. Mới đọc thoáng qua tưởng đem Sông Bạc đối với giếng vàng thì chỉnh quá. Nhưng thực chất từ Sông Bạc dùng ở đây sẽ có điều bất cập:

Từ “Sông Bạc” viết hoa, như vậy nó là tên riêng của một con sông. Vậy đó là sông nào ? ở bên Tàu hay ở ta ? Nếu đem danh từ riêng “Sông Bạc” mà đối với một danh từ chung “giếng vàng” thì đó là cái dở vì đối ngẫu.

Trong thơ Đường luật người ta rất tránh dùng những từ trùng lặp. 56 từ trong bài thơ bát cú là 56 viên ngọc, mỗi viên ngọc phải tỏa cái lấp lánh của riêng mình. Một ngôi sao sáng về thơ Đường luật như Quách Tấn mà trong bài này có đến hai lần dùng từ trùng lặp thì thực là khó tin.

- Chữ tiếng dùng hai lần (tiếng rộn ràng ở câu 2 và tiếng dộI ở câu 7).

- Chữ sông dùng hai lần (tiếng sông Xích Bích ở câu 4 và sông bạc).

Theo Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh in hai câu này như sau:

“Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng”

Ở đây tiếng song là cửa sổ phù hợp hơn và thơ hơn. Như vậy từ hai câu này lại gợi ta nghĩ đến một bài thơ cổ khác có liên quan đến tiếng quạ kêu. Đó là bài Ô dạ đề của Lý Bạch. Toàn bộ bài thơ như sau:

Ô DẠ ĐỀ (12)
Hoàng Vân thành biên ô dục thê
Quy phi “á, á” chi thượng đề
Cơ trung chức cẩm Tần Xuyên nữ
Bích sa như yên cách song ngữ
Đình thoa trướng nhiên tư viễn nhân
Độc túc cô phòng lệ như vũ
Lý Bạch (Đường thi)

Dịch thơ

Mây vàng tiếng quạ bên thành
Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu
Tần Xuyên cô gái buồng thêu
Song sa khói tỏa như khơi chuyện ngoài
Dừng thoi buồn bã nhớ ai
Phòng không gối chiếc, giọt dài tuôn mưa
Tản Đà (dịch)

Như vậy: ý tưởng hai câu thơ của Quách Tấn

“Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng”

Ta thấy nó giống như ý tưởng ba câu cuối trong bài thơ của Lý Bạch trên. Dù rằng về cách biểu đạt thì Lý Bạch là kể mà Quách Tấn là cảm. Song ý thơ vẫn tương tự nhau.

Cái ý tưởng này còn được Quách Tấn sử dụng một lần nữa sát hơn. Đó là hai câu cuối bài “Đêm tình”

“Phòng không thương kẻ ngồi nương triện
Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng”

Dồn lại ta thấy ý tưởng trong bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu của Quách Tấn đã bắt nguồn lần lượt từ ba bài thơ cổ đời Đường.

Đọc đi đọc lại, chúng tôi không dám tin là sự thực nữa, và tự đặt ra cho mình một số câu hỏi, nhưng không tự trả lời được.

1. Phải chăng ý tưởng trong bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu có được là do Quách Tấn đã khéo dịch và lắp ghép từ ý tưởng của 3 bài thơ đời Đường kể trên.

2. Những tâm hồn thơ lớn thường gặp nhau trong cảm xúc thơ và đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên chăng? Nhưng tại sao lại không trùng với những bài thơ cổ khác mà lại chỉ trùng với 3 bài có liên quan tới quạ ?

3. Phải chăng vì quá yêu thích ba bài thơ trên, ông đã thuộc chúng quá kỹ nên bị chúng ám ảnh và chi phối khi sáng tác thơ của mình ?

Với tấm lòng yêu quý và kính trọng của một người đang theo làm thơ Đường luật, đối với cụ Quách Tấn, chúng tôi hy vọng những điều thấy và nghĩ của chúng tôi trên đây chỉ là ngộ nhận, là hiểu sai lệch mà thôi.

Ngày 20 tháng 6 năm 2001

CHÚ THÍCH

(1) Trích trong Quách Tấn - Bóng ngày qua do Quách Giao sưu tầm, Nxb Hội nhà văn, 1999.

(2) Sđd. tr.269

(3) Sđd. tr.269

(4) Sđd. tr.254

(5) Sđd. tr.261

(6) Sđd. tr.259

(7) Sđd. tr.253

(8) Sđd. tr.264

(9) Đường thi. Nxb Đà Nẵng, 2000.

(10) Thi nhân Việt Nam, Nxb. Văn học. 1989

(11), (12) Thơ Đường. Nxb Văn học. 1987.

TB

NHÂN ĐỌC BẢN DỊCH CUỐN
THIÊN GIA THI TOÀN TẬP

THẾ ANH

Gần đây trên thị trường sách có nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn và dịch thuật thơ Đường, trong đó có thể kể đến cuốn sách dịch Thiên gia thi toàn tập của nhà thơ Ngô Văn Phú(1) do Nxb. Hội nhà văn ấn hành năm 1998. Chúng tôi đặc biệt chú ý đến cuốn này bởi lẽ đây là bản dịch đầu tiên toàn bộ 228 bài thơ với “hy vọng... đem đến cho bạn đọc một cuốn Thiên gia thi, thật sự như vẫn lưu hành ở Trung Quốc mấy trăm năm nay...” như người dịch đã tâm sự trong lời nói đầu. Ngô Văn Phú đã có bài giới thiệu Thiên gia thi và nêu lên một số giả thuyết về các tác giả của cuốn sách cũng như thời gian xuất hiện của nó.

Cuốn Thiên gia thi tập hợp những bài thơ chọn lọc của hàng trăm thi nhân nổi tiếng thuộc các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh... Những bài thơ trong sách đều thuộc loại cận thể có hình thức ngắn gọn, ít điển cố, ngôn từ trau chuốt dễ đọc, dễ nhớ. Sau từng bài có giới thiệu tóm tắt tiểu sử tác giả và những lời chú thích ngắn gọn, cô đọng đủ để lĩnh hội nội dung của bài thơ. Cuốn sách được đánh giá cao ở Trung Quốc và được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam và xem như một loại sách tham khảo để học làm thơ cho các sĩ tử thời xưa. Các nhà Nho của nhiều thế hệ trước đây không ai là không biết đến cuốn sách này. Đặc biệt mảng đề tài về thiên nhiên, phong cảnh chiếm một tỷ lệ khá lớn trong cuốn sách, cho nên được nhiều người yêu thơ đón nhận một cách nhiệt tình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng đọc cuốn sách này và viết thơ Khán “Thiên gia thi” hữu cảm trong đó có câu:

Cổ thi thiên ái thiên nhiên mĩ
Sơn, thủy, yên, hoa, tuyết, nguyệt, phong...

(Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông...)
Nam Trân dịch

Do nhu cầu thưởng thức, ở Việt Nam từ trước đến nay đã có nhiều người dịch thơ Đường, Tống trong đó có nhiều bài nổi tiếng đã được tuyển chọn vào Thiên gia thi như Tĩnh dạ tư, Thanh bình điệu... của Lý Bạch; Tuyệt cú, Khúc giang của Đỗ Phủ; Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên; Ô Y hạng của Lưu Vũ Tích; Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, Xuân tiêu, Hải đường của Tô Thức... Tuy nhiên trong cuốn Thiên gia thi còn có nhiều bài trước đây chưa được dịch và phổ biến. Việc dịch toàn tập Thiên gia thi lần này là một đóng góp đáng quý, giúp cho các nhà nghiên cứu văn học có tài liệu tham khảo và những người yêu thích thơ cũng được bổ sung thêm một mảng kiến thức về thơ ca cổ điển Trung Quốc.

Là một nhà thơ, Ngô Văn Phú có nhiều thuận lợi trong vấn đề cảm nhận và thưởng thức thi ca, nên những bài dịch của anh thường linh hoạt, có hồn. Chẳng hạn bài Tuyệt cú của Đỗ Phủ trước đây Tản Đà đã có một bài dịch rất hay, nhưng bài dịch của Ngô Văn Phú vẫn gây được ấn tượng :

... Tây Lĩnh, song ngoài, nghìn thủa tuyết,
Đông Ngô, cửa trước, vạn thuyền giăng.
Hay bài Khúc giang (II) của Đỗ Phủ:
Tan chầu, đắm đuối cảnh xuân tươi,
Say khướt đầu sông mới chịu lui.
Nợ rượu, quán quen đâu chẳng gặp,
Bảy mươi tuổi hiếm ở trên đời.

Trong cuốn sách có nhiều bài dịch sát và có chất lượng. Trên đây chúng tôi chỉ nêu vài trường hợp làm dẫn chứng, chưa hẳn đã là những câu tiêu biểu. Chúng tôi muốn dành phần còn lại của bài viết để nêu lên những chỗ sai sót nhằm đính chính phần nào cho cuốn sách.

1. Phiên âm sai:

Trang Chữ Hán Phiên âm Đúng ra phải là
1 2 3 4
24 - 25 Nhược Khước (Kiếp)
34 Khước Khiếp
41 豚 柵 Thỉ bàng Đồn sách
鸡 栖 Kê sái Kê thê
桑 柘 Tang đố Tang giá (桑 柘). Giá là một loại cây dùng lá để nuôi tằm. Trong bài Ngư nhàn của Thiền sư Dương Không Lộ đời Lý cũng có dùng chữ “tang giá”: Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên (Một thôn sương khói, một vùng dâu đay)
53 簿 Bạch Bạc
91 Tràng Trường (nên phiên âm là trường để hiệp vận với đường và hương ở câu 2 và câu 4)
107 - 108 Thảo Xảo
124 絲 綸 Mịch luân Ti luân Chỉ chiếu sắc của vua. Kinh Lễ: Vương ngôn như ti, kỳ xuất như luân (Lời vua như tơ, nói ra như tấm vải). Vải có đường dọc, đường ngang, ngụ ý có quy mô phép tắc. Vì vậy, nơi các quan làm nhiệm vụ thảo chiếu sắc của vua trong tòa Trung thư gọi là “Ti luân các”
131 Kiệt Quất
134 Đãng Thang
147 Mạc Mạch
Uy Ôi
Quật Đốt - cốt đốt (骨 柮) là gốc cây
168 寂 寥 Tịch giao Tịch liêu
178 Niêm Triêm
182 Kiến Cụ thể trong bài Khúc giang (II) đọc là hiện
199 簌 簌 Huyễn huyễn Tốc tốc (có nghĩa là sột soạt-từ tượng thanh)
200 從 容 Tòng dong Thung dung (thong dong)
217 Khi ỷ (y)
靈 槎 Linh sai Linh tra
240 Khảm Chước
261 Trá Sạ
329 虎 斗 Hi Hổ Đầu Cố Hổ Đầu (họa sĩ nổi tiếng đời Tấn)
333 Giá Gián (can gián, can ngăn)
341 崔 融 Thôi Súc Thôi Dung
343 Hựu Uất (đẹp đẽ, lộng lẫy) (úc)
Sảm Thiểm
378 - 379 Trục Dữu (quả bưởi)
383 瘴 癘 Chướng mại Chướng lệ
387 Đạc Tạc

2. Chép sai dẫn đến phiên âm sai:

Tr.137 câu thứ 4 trong bài Mai, chữ nhạ đắc (惹 得) chép thành nhược đắc

Tr.329 chữ 虎 斗 (Cố Hổ Đầu) chép thành 虎 斗 và đã phiên âm thành Hi Hổ Đầu.

Tr.223 chữ lật (栗) chép nhầm ra chữ túc (粟).

Tr.343 chữ phạp (乏) viết nhầm ra chữ chi (之).

Tr.116 chữ xuất (出) trong đầu đề bài thơ chép thành chữ sơn (山)

3. Dịch sai:

Tr.206 câu thứ 1 trong bài thơ Thu hứng (II) của Đỗ Phủ:

Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy.

Dịch nghĩa là: Ánh chiều yên lặng chiếu vào muôn nhà ở xóm núi ngoại ô, rồi dịch ra thơ là Chiều xuống, nghìn nhà xóm núi xa. Dịch như vậy là hoàn toàn sai. “triêu huy” không có nghĩa là “ánh chiều” mà là: nắng sớm, nắng buổi sáng, nắng mai (Nghìn nhà ven núi nắng mai soi).

4. Những sai sót khác:

- Có nhiều lỗi sai về chính tả, nhầm lẫn giữa tr và ch, x và s… Tri / chi, trúc / chúc, trâm / châm, trích / chích, trẩm / chẩm, xứ / sứ, xúc / súc... Đành rằng trên sách báo của chúng ta hiện nay những sai sót thuộc loại này là phổ biến và được xem như một “hiện tượng bình thường”, nhưng đối với một số cuốn sách dịch và phiên âm thì phải cẩn trọng hơn, vì sự lẫn lộn giữa tr và ch, x và s… sẽ dẫn đến hiểu sai nghĩa và làm giảm hứng thú của người đọc.

- Cũng do không kiểm tra kỹ nên nhiều chữ viết một đàng, phiên âm một nẻo:

Thoa (梭) phiên âm thành Thoan (Tr.70)
Đại (大) phiên âm thành Đạt (Tr.199)
Triêu (朝) phiên âm thành Tiên (Tr.277)
Du (游) phiên âm thành Thượng (Tr.281)
Thâm (深) phiên âm thành Đồng (Tr.318)

Mặc dù có những sai sót như chúng tôi đã nêu ở trên (do có nhiều bài mới được phiên âm và dịch lần đầu) nhưng bản dịch Thiên gia thi toàn tập vẫn là một cuốn sách tham khảo bổ ích cho các nhà nghiên cứu văn học và bạn đọc yêu thơ.

CHÚ THÍCH

1. Ngô Văn Phú còn có 2 cuốn: Thơ Đường ở Việt Nam (1996) và Đường thi tam bách thủ (2001), đều do Nxb. Hội Nhà văn ấn hành.

TB

PHÁT HIỆN VĂN BẢN BÀI “NON MAI” CỦA CA TRÙ TRONG KHO SÁCH
HÁN NÔM

NGUYỄN XUÂN DIỆN

1. Hai khúc ca Non mai Hồng hạnh trong nghệ thuật ca trù(1) được đề cập đến trong bài viết này có liên quan đến lễ tế tổ ca trù tại các giáo phường. Về lệ tế Tổ, sách Việt Nam Ca trù biên khảo viết:

“Ở Bắc Việt hàng năm đến ngày 11 tháng Chạp, các giáo phường làm lễ tế Tổ là Bạch Hoa Công chúa. Trước ngày lễ độ một tháng những giáo phường trong vài ba huyện vốn giao hiếu với nhau, họp lại chọn một người Trùm nhiều tuổi từng trải, đứng lên làm Trùm nhất (Thủ khoán) để điều khiển mọi việc. Người Trùm nhất đạt giấy cho các phường biết nơi tế, vì ít phường có đền thờ Tổ riêng biệt nên khi tế họ chọn một nhà nào rộng rãi trong phường, hoặc mượn đình sở của làng lân cận. Việc lựa chọn do Trùm quyết định và được các phường đồng ý. Những phường ở xa góp tiền, còn phường sở tại trù liệu lễ phẩm và dự bị đón tiếp tân khách.

Khi tế cũng cử hành nghi thức như lễ tế Thần. Các phường đều tuyển những đào hay kép giỏi tới múa hát đủ mọi lối. Chỉ những người có dự Chầu cử mới vào hát thờ Tổ.

Hát thờ Tổ khác lối hát cửa đình ở điểm thoạt vào kép ca đàn, rồi ngâm khúc Non mai, tiếp đến khúc Hồng hạnh và khi hát thờ thì gọi là hát Giai xâu. Tương truyền chính bà Bạch Hoa Công chúa đã làm ra hai khúc Non mai, Hồng hạnh nên cô đầu chỉ dành khi thờ bà mới hát, ngoài ra không bao giờ hát khúc ấy ở đền miếu khác và cũng không dám hát cho ai nghe”. (Sđd, tr.48)

Tiếp theo, sách cho biết khúc Non mai có 8 câu, mới sưu tầm được hai câu, còn thiếu 6 câu; và dẫn hai câu sưu tầm được, như sau:

Non mai rạng lĩnh canh ba

Ngành mai sơ chiếng nở ra một chùm.

Sách Hát Cửa đình Lỗ Khê cũng cho biết tương tự về lễ tế tổ ở Lỗ Khê. Và cũng cho biết “ Khúc Non mai có 8 câu, mới sưu tầm được 2 câu, rất mong bạn đọc bổ sung giúp cho”. (Sđd, tr.101-102 ).

Như vậy, Non maiHồng hạnh có thể xem là ca từ của một trong những làn điệu cổ nhất trong ca trù. Nhưng đã được các nhà nghiên cứu cho biết là đã thất truyền. Ngoài các tác giả Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề, Chu Hà trong các sách kể trên, thì các tác giả Ngô Linh Ngọc và Ngô Văn Phú trong Tuyển tập Thơ Ca trù cũng không cho biết gì về hai khúc Non maiHồng hạnh. Gần đây chúng tôi có hỏi chuyện những người trong giới ca trù như Nghệ sĩ ưu tú Kim Đức, bà Đào Phê (vợ Kép Tư Châu), gia đình ông Nguyễn Văn Mùi (Nhóm Ca trù Thái Hà), cụ Ngô Linh Ngọc. Lần lượt chúng tôi được biết như sau: Bà Kim Đức cho biết bà chưa từng dự một lễ tế tổ. Bà Đào Phê thì có được dự lễ tế tổ và có nghe hát Non maiHồng hạnh, nhưng nay thì không còn nhớ nữa (năm nay bà đã 97 tuổi, nhưng năm chúng tôi gặp bà lần đầu và hỏi về chuyện này là 1995, khi ấy bà 92 tuổi). Cô Thúy Hòa (Nhóm Ca trù Thái Hà), học trò của cố Nghệ sĩ nhân dân Quách Thị Hồ thì cho biết chính bà Quách Thị Hồ cũng không được dạy bài Non maiHồng hạnh. Cụ Ngô Linh Ngọc cho biết có được dự lễ tế tổ nhưng cũng không nhớ được lời và giai điệu của hai khúc hát cổ này.

May thay, theo lời kể của ông Nguyễn Văn Mùi (con trai của cụ Nguyễn Văn Xuân, nghệ nhân đàn Đáy ấp Thái Hà) thì vào khoảng giữa thập kỷ 50, có một học giả Liên Xô đã tới Việt Nam để tìm hiểu về cổ nhạc Việt Nam và có đề nghị thu âm hai bài hát Non maiHồng hạnh do bà Châu Doanh hát, ông Nguyễn Văn Xuân đàn, ông Trần Ngọc Tuất điểm trống. Đấy là tiếng hát Non maiHồng hạnh duy nhất còn lại hiện nay, nhờ vậy chúng ta mới có thể biết được lề lối của hai điệu hát này. Cô Thúy Hòa, con gái của ông Mùi, cũng là một đào hát được gia đình giao cho việc nghe và tập bài Non maiHồng hạnh, qua nhiều lần nghe cũng không rõ những chữ trong lời của bài hát qua tiếng hát của bà Châu Doanh ghi trong đĩa. Nguyên do vì đĩa hát được thực hiện đã lâu, khi ấy phương tiện và kỹ thuật ghi âm còn chưa tốt; và khúc hát này lại là khúc hát thờ nên luyến láy rất công phu và gần với nhạc tế.

2. Hiện nay chúng tôi đã tìm được hai văn bản chép hai khúc Non mai. Văn bản thứ nhất là Ca trù thể cách (AB.564) chép từ trang 67b đến trang 69a. Văn bản thứ hai là Ca trù tạp lục (VHv. 2940) chép từ trang 9a đến 9b. Hai văn bản này đều được chép trong thời Nguyễn.

Non mai là lấy hai chữ đầu tiên trong khúc hát thờ tổ để đặt tên gọi cho cả bài thơ. ở bản AB.564 bài thơ có 4 đoạn, mỗi đoạn có một ý nghĩa riêng, lần lượt 3 đoạn đầu tả vẻ đẹp và ca ngợi “đức” của mai, trúc, tùng nhắc nhớ một số điển tích trong cổ văn; đoạn cuối cùng là các câu ca mừng làng và chúc phúc tứ dân.

Nhận thấy việc cung cấp một văn bản ca từ thuộc loại cổ của một bộ môn nghệ thuật độc đáo của dân tộc là có ý nghĩa, nhất là khi được biết bộ môn này là một trong những bộ môn nghệ thuật đã được lập hồ sơ đề nghị UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, chúng tôi cung cấp văn bản bài Non mai được phiên âm từ các tài liệu nêu trên. (Bài Hồng hạnh được chép trong Việt Nam Ca trù biên khảo chỉ khác biệt với bản chép trong Ca trù thể cách (AB.564) ở một vài chữ nên xin không giới thiệu trong bài viết này).

- Thơ Non mai (chép trong AB.564, tr.67b – 69a)

Đọc Non mai do hai đào nương: một người đọc; một người hát. Thơ thì dùng phách khoan. Dồn thì dùng phách mau.

[Mai]

Non mai rạng lĩnh canh ba

Cành mai sơ chiếm nở ra cành vàng

Thuở ấy ngồi tới về ban nguyệt tà

[.....] Hỡi khéo thay mai

Mình tô phấn bạc, da dạm yên chi

Ngự sử nhà truyền cốt cách(2)

Nhởn nhơ vàng [.......]

Non cao Thứu Lĩnh thanh tân

Hóa ngọc lưu ly

Giúp ngoài ba quân

Trận khi giải khát(3)

Thuở điều canh [ .......] mùi canh(4)

Chiếm tam khoa bảng thực là nam nhi(5)

Có thơ rằng

Có thơ rằng

Vị vấn điều canh [...] chín vạc(6)

Trận khi giải khát trợ tam quân(7)

Có thơ rằng

Quan cao Ngự sử đền truyền thanh bạch(8)

Khoa phát nam nhi chiếm bảng xuân(9)

[Trúc]

Kỳ Viên lục mộc ba đông(10)

Nhưng nhưng quân tử thẳng lòng không

Kỳ úc(11) sinh nên

Lá uốn éo hình như đuôi phượng

Giang Lăng náu ẩn(12)

Da đồi mồi, lưng tựa khúc ong

Trúc họp một cần

Thuở Bàn Khê bạn cùng ông Lã Vọng(13)

Tuyết ba nghìn diệp, chốn đài trang trúc hóa vi long

Có thơ rằng:

Trượng phu quân tử thẳng lòng không

Con phượng sinh, nên có cháu rồng

Trúc thuở Bàn Khê phù Thánh đế(14)

Trúc cài có thuở hóa vi long

[Tùng]

Cây cao xanh tốt

Tán rợp phô trương

Nghe vẳng bên tai kêu bủng bủng

Nhủ tới về ban nguyệt tà

Tựa bằng tiếng nhạc

Thoảng mùi linh, mùi gió hiu hiu

Chức trọng Đại phu, phù vương thất nên tài rường cột(15)

Quan cao Tể tướng khắp hoàng gia

Có thơ rằng:

Đùn đùn tán rợp trấn non đông

Che chở vua Tần [....] phong(16)

Ghe(17) chống miếu đường nên rường cột

Thực tài đà đương chức Tam công(18)

Hạc đỗ cành cao

Đà phải duyên giao hòa

Kho tàng chừa dễ(19) can qua(20)

Nay mừng làng được vinh hoa sang [...]

Tứ dân này Sĩ ở đầu

Khôi khoa chiếm bảng danh thâu đương thời

Nông kia biết được thiên thời

Hòa ma(21) [........], đem về đầy sân.

Công kia khéo nhẽ muôn phần

Dựng nên đài các thánh nhân để truyền

Thương đi buôn bả [..........]

Kim ngân vô số, bạc tiền đầy đa.

- Thơ Non mai: (chép trong VHv.2940, tr.9a-9b)

Lối hát này nhả chữ tròn trĩnh, khuôn phép, như bày đặt các chữ ra vậy. Mỗi câu, mỗi chữ đều phải dùng hơi dài. Quản kép hát lối Vịnh mai, đào nương dùng lối Bắc phản.

Kép xướng:

Non mai Thứu Lĩnh giao gia(22)

Cành mai sơ chiếng(23) nở ra một dường

Đào thưa:

Non mai sơ chiếng nở ra một dường

Kép:

Lâm Bô(24) thuở ấy là nhủ tới ban nguyệt tà

Thanh thay những là mai, những là mai

Mình tô phấn bạc da dạm yên chi

Ngự sử nhà truyền cốt cách

Mấy trái xui lệ(25)

Non mai Thứu Lĩnh thanh tân

Hay là hoa ngọc lưu ly

Trợ Ngụy(26) ba quân khi giải khát

Điều canh phù chín vạc

Đa xưng Ngự sử

Chiếm hoa khôi

Có thơ rằng

Đào thưa:

Có thuở điều canh phù chín vạc

Trận khi giải khát trợ tam quân

Danh xưng Ngự sử truyền thanh bạch

Thỏa chí nam nhi chiếm bảng xuân

ấy là mai lạc sấu viên(27)

Xuân nở ra một cành

Kép:

Tung hô là vậy

Mở lên thưa tung hô là vậy

Đào:

Mừng vua tôi xá(28) lại mừng vua

Kép:

Quang đăng bảo vị(29)

Tôi mừng vua quang đăng bảo vị

Đào:

Vạn dân đều phú quý vinh hoa

Kép:

Đã dẹp can qua

Kho tàng đã dẹp can qua

Ý trời đã tựa dân ta sang giàu

Đào:

Ngồi câu sông Vị Thủy(30)

Đêm thanh nhàn vẻ lấy làm câu

Kép:

Nhường sĩ ở đầu

Tứ dân nhường sĩ ở đầu

Một mai thi đỗ danh thơm để truyền

3. Một vài nhận xét:

a. Văn bản bài Non mai đã phát hiện thuộc loại ít gặp do kiêng kỵ, ít được nghe, ít thấy sao chép, nên vắng bóng trong hầu hết các tuyển tập về ca trù trong kho sách Hán Nôm.

b. Bản AB.564 cho biết Non mai có thể chỉ do đào nương hát mà không nhất thiết phải cả đào (nữ) và kép (nam) đều hát.

c. Ca từ của Non mai gián tiếp có nội dung ca ngợi vị tổ ca trù là Đinh Dự qua việc ca ngợi bậc quân tử thanh cao, tiết tháo, đem tài ra giúp nước.

d. Trong bài có chữ chúc “mừng làng” và ca ngợi tứ dân cho thấy việc mượn đình làng khác để làm lễ tế tổ là đúng như Việt Nam Ca trù biên khảo đã ghi nhận.

e. Khúc hát Non mai thờ tổ có nội dung ca ngợi mẫu hình lý tưởng theo Nho giáo, với nhiều điển tích điển cố sâu xa, nhưng khi diễn xướng lại diễn ra trong không gian bình dị ở thôn quê cho thấy ca trù ngay từ buổi đầu đã gắn chặt với sinh hoạt dân gian.

CHÚ THÍCH

(1) Chúng tôi được biết thêm trong nghệ thuật Chèo cổ cũng có một làn điệu nắn bẻ gọi là Vãn Non mai (Xem bài của Trần Việt Ngữ: Mấy ý kiến về Liên hoan các trích đoạn chèo hay toàn quốc 1993; trên Tạp chí Văn hóa Nghệ thuậ t số 6 năm 1994, tr.35). Trao đổi với Nhà nghiên cứu chèo Hoàng Kiều, chúng tôi thống nhất rằng lối Vãn Non mai của Chèo và lối Non mai của ca trù hoàn toàn khác nhau về lời và giai điệu.

(2) Hoa mai và cây mai có vẻ đẹp thanh khiết và cao quý như phẩm chất của quan Ngự sử trong triều đình. Theo Văn hiến thông khảo, thơ Lưu Hành Giản có câu: Ngã thường phẩm Giang mai - Chân chính hoa quân tử (Ta thường bình phẩm hoa mai ở Giang Nam - Thật đáng là quan Ngự sử các loài hoa). Thơ Hồng Đức Quốc âm thi tập có câu:

Hội lành được dự Quỳnh Lâm yến
Tiết ngọc trăng nhường Ngự sử mai.

(3) Nhắc chuyện Tào Tháo điều quân, quân sĩ khát nước; Tào liền chỉ về dãy núi phía trước nói là sắp tới một rừng mai. Quân lính nhờ thế mà đã đỡ được cơn khát.

(4) Điển tích: vua Cao Tông nhà Thương cầu được Phó Duyệt ở đất Phó Nghiêm, tôn ông làm tướng, cho ở bên cạnh. Cao Tông nói với Phó Duyệt: Nhĩ duy huấn vu trẫm chí. Nhược tác tửu lê, nhĩ duy cúc nghiệt. Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm ma (Nhà ngươi phải dạy dỗ cho chí ta được suốt mọi việc. Nếu có nấu rượu ngọt, nhà ngươi là men rượu. Nếu có làm việc nêm canh, nhà ngươi là muối là mơ). ở đây chỉ vai trò của kẻ sĩ giúp vua sửa sang việc nước, cũng ví như chất chua của mai trong khi nấu canh vậy.

(5) Ngày xưa kỳ thi Hội chọn lấy đỗ Tiến sĩ được tổ chức vào mùa xuân, cùng với dịp hoa mai nở. Bảng ghi tên những người thi đỗ do đó cũng gọi là bảng mai, hoặc bảng xuân. Truyện Lưu nữ tướng có câu:

Hội xuân đầu chiếm bảng mai
Cảm công đèn sách dùi mài bấy lâu.

(6) Xem chú thích 4.

(7) Xem chú thích 3.

(8) Xem chú thích .

(9) Xem chú thích 5.

(10) Kỳ Viên là tên một khu rừng trúc ở nước Vệ, ở đó có nhiều loài trúc quý. Câu thơ ý nói rừng trúc ở Kỳ Viên xanh biếc suốt cả (3 tháng) mùa đông.

(11) Chưa rõ điển tích.

(12) Giang Lăng là miền đất thuộc tỉnh Hồ Bắc, ở đây có giống trúc quý gọi là trúc Giang Nam, cao đến hai, ba trượng, ruột rỗng, đầu mắt có ngấn như vòng, lá nhọn như mũi tên.

(13) Bàn Khê là nơi Lã Vọng ngồi câu. Khi đã 70 tuổi ông còn phải đi câu ở Bàn Khê để sinh sống. Chu Văn Vương đi săn qua đấy gặp ông và đưa ông về tôn làm thầy.

(14) Xem chú thích trên.

(15) Điển tích: theo Hán quan chí Tần Thủy Hoàng bản kỷ: Tần Thủy Hoàng lên núi Thái Sơn làm lễ phong thiện, gặp mưa to trú nấp dưới gốc cây thông. Qua cơn mưa ông phong cho cây thông là Ngũ Đại phu.

(16) Xem chú thích 15.

(17) Ghe: nhiều (từ cổ). ở đây chỉ cây thông, tượng trưng của người quân tử nhiều lần giúp vua trong việc trị nước.

(18) Tam công: ba chức quan cao nhất trong triều đình gồm: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.

(19) Chừa dễ: chưa rõ nghĩa.

(20) Can qua: cái mộc và cái mác. Sau chỉ chung các binh khí đời cổ, rồi về sau nhắc đến can qua là nhắc đến chiến tranh.

(21) Hòa ma: thóc lúa, vừng; đây chỉ ngũ cốc nói chung.

(22) Giao gia: đan chéo vào nhau. Đây chỉ rừng mai tươi tốt, cành lá đan vào nhau.

(23) Chiếng: nở (từ cổ).

(24) Lâm Bô: Lâm Bô người đời Tống, tự Quân Phục, mồ côi từ bé, rất chăm học, tính điềm đạm, không cầu danh lợi, ẩn ở núi Cô Sơn vùng Tây Hồ, hai mươi năm trời chân không bước tới thị thành. Ông vẽ đẹp, chữ tốt, thơ hay, thơ làm xong là bỏ đi, không muốn truyền lại. Ông không lấy vợ, chỉ trồng mai và nuôi hạc làm bạn. Người đời bấy giờ cho rằng ông lấy mai làm vợ, hạc làm con (mai thê hạc tử). Thơ Hồng Đức Quốc âm thi tập có câu:

Trúc Tưởng Hũ nên thêm tiết cứng

Mai Lâm Bô đâm được câu thần

(25) Chưa rõ nghĩa. Chúng tôi phiên âm theo mặt chữ.

(26) Ngụy: nước Ngụy của Tào Tháo. Đây chỉ quân lính nước Nguỵ. Xem chú thích 13.

(27) Chưa rõ điển tích.

(28) Xá: hãy, nên (từ cổ)

(29) Bảo vị: ngôi báu.

(30) Vị Thủy: nơi Lã Vọng ngồi câu. Xem thêm chú thích 13.

TÀI LỈU THAM KH?O CHÍNH

1. GS. Đinh Gia Khánh và Trần Tiến chủ biên. Địa chí Văn hóa Dân gian Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Sở Văn hóa - Thông tin, H, 1991.

2. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề : Việt Nam Ca trù biên khảo. Tác giả tự xuất bản. Sài Gòn, 1962.

3. Hát Cửa đình Lỗ Khê. Sở Văn hóa - Thông tin, H, 1980.

4. Ngô Linh Ngọc, Ngô Văn Phú : Tuyển tập Thơ Ca trù. Nxb. Văn Học, H. 1987.

5. Hoàng Đạo Thúy: Phố phường Hà Nội xưa. Sở Văn hóa - Thông tin, H, 1974.

6. Nguyễn Xuân Diện : Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù. Nxb. KHXH, H, 2000.

7. Nguyễn Thạch Giang, Lữ Huy Nguyên: Từ ngữ điển cố văn học. Nxb. Văn học, H, 1999.

8. Vương Lộc: Từ điển từ cổ. Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2001.

TB

TIỀN THÂN CỦA BÀI
NAM AI TÔ HUỆ CHỨC CẨM HỒI VĂN

TRẦN PHƯỚC THUẬN

Bài Nam ai Tô Huệ chức cẩm hồi văn là một bài ca cổ nổi tiếng ở Bạc Liêu từ hơn trăm năm nay, hiện đã lưu hành khắp Nam Bộ. Đây là bài ca đầu tiên mang tích “Tô Huệ chức cẩm hồi văn” không rõ do ai soạn ra; đã được Nhạc Khị chỉnh lý và biên tập lại cả nhạc lẫn lời và rút ra ý nghĩa “Chinh phụ vọng chinh phu” để làm chủ đề sáng tác cho các môn sinh đệ tử, từ đó sản sinh ra một loạt bài ca mang ý nghĩa này; bài Nam ai Tô Huệ chức cẩm hồi văn đã trở thành bài ca tiêu biểu để làm cơ sở sáng tác cho các nhạc sĩ trong phong trào đàn ca tài tử ở Bạc Liêu trong tiền bán thế kỷ XX.

Tiền thân của bài Nam ai này là một bài cổ thi được người đời gọi tên “Tô Huệ chức cẩm hồi văn”. Theo tích xưa truyền lại: vào thời nhà Tần có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan quê ở Hà Nam (Trung Quốc), rất giỏi thơ văn, nhân vì chồng nàng là Đậu Thao bị bắt đi làm lính thú ở ải Lưu Sa gần 10 năm chưa về nên nàng đã làm một bài thơ thêu trên gấm theo hình ô vuông để dâng lên vua, nội dung của bài thơ diễn tả nỗi nhớ nhung đòi đoạn của người phụ nữ trong cảnh chăn đơn gối lạnh vò võ một mình từ ngày này sang ngày khác, cuối cùng xin vua tha cho chồng về. Bài thơ thực sự đã gây xúc động, nên vua đã xuống lệnh cho Đậu Thao được giải ngũ để về vợ chồng sum họp.

Bài thơ gốc bằng chữ Hán, tác giả không đề tựa, người đời sau nhận thấy đây là một bài thơ được nàng Tô Huệ thêu trên gấm theo lối hồi văn, nên mọi người đều gọi là: Tô Huệ chức cẩm hồi văn. Bài thơ được trình bày như sau:

Muốn đọc bài thơ phải đọc từ bên trái cận ngoài biên bắt đầu từ chữ QUÂN rồi đọc xuống hàng biên bên phải, lại đọc ngược lên theo lối chữ CHI, những chữ lớn cũng đọc từ bên trái theo vòng tròn quanh lộn vào giữa, chữ cuối bài thơ là chữ HOÀN.

Bài thơ này tồn tại đến nay đã qua một thời gian quá lâu, vả lại nhiều lần sao đi chép lại nên có rất nhiều dị bản(1). Chúng tôi dùng bản của Hòa thượng Thích Đạt Hảo và tạm phiên âm Hán Việt theo hàng ngang cho dễ đọc:

TÔ HUỆ CHỨC CẨM HỒI VĂN

1.Quân thừa hoàng chiếu an biên thú

2.Tống quân tống biệt hà kiều lộ

3.Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn

4.Mạc vong ân tình tiện trường khứ

5.Hà kỳ nhất khứ âm tín đoạn

6.ức thiếp binh vi xuân bất noãn

7.Quỳnh dao giai hạ bích đài không

8.San hô trướng lý hồng trần mãn

9.Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn

10.Tương tâm hà thác cánh phùng quân

11.Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt

12.Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân

13.Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện

14.Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên

15.Phi lai phi khứ đáo quân bàng

16.Thiên lý vạn lý dao tương kiến

17.Thiều thiều lộ viễn quan san cách

18.Hận quân tái ngoại trường vị khách

19.Khứ thời tống biệt lô diệp hoàng

20.Thùy tín kỷ kinh mai hoa bạch

21.Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo

22.Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo

23.Thùy dương mãn địa vị quân bản

24.Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo

25.Đình tiền xuân tảo chính phân phương

26.Bão đắc Tần tranh hướng họa đường

27.Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc

28.Phụ ký tình thâm đáo Sóc phương

29.Sóc phương điều đệ sơn hà việt

30.Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt

31.Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y

32.Kim lũ la thường hoa giai liệt

33.Tam xuân hồng nhạn độ giang thanh

34.Thử thị ly nhân đoạn trường tình

35.Tranh huyền vị đoạn, trường tiên đoạn

36.Oán kết tiên thành, khúc vị thành

37.Quân kim ức thiếp trọng như san

38.Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn

39.Chức tương nhất bản hiến thiên tử

40.Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn.

Bài thơ chữ Hán bên trên truyền vào Việt Nam và được dịch sang chữ Nôm, hai bản dịch tiêu biểu nhất là bản của Hoàng Quang (? - 1801) - danh sĩ thời Tây Sơn và bản của Ngô Thế Vinh (1803 - 1856) - Tiến sĩ thời Nguyễn. Cả hai bản dịch đều được trình bày theo thể thơ song thất lục bát và được lưu truyền rất rộng trong dân gian.

TÔ HUỆ CHỨC CẨM HỒI VĂN

Bản dịch Nôm của Hoàng Quang

1.Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại

2.Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông

3.Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng

4.Chớ tham chốn khác mà vong tình này

5.Trông tin tức tới nay thăm thẳm

6.Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân

7.Từ ngày đôi ngả cách phân

8.Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong

9.Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ

10.Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau

11.Nguyện làm trăng giữa biển sâu

12.Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao

13.Trăng giữa biển năm nào cũng thấy

14.Mây đầu non dường mấy cũng thông

15.Bay qua bay lại bên chồng

16.Dẫu ngàn muôn dặm xa trông như gần

17.Quan san ấy mấy lần trở cách

18.Hiểm nỗi chàng làm khách rất lâu

19.Chàng đi mới trổ bông lau

20.Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai

21.Hoa trăm thứ xuân tươi hớn hở

22.Xuân giục người than thở với ai

23.Dương kia đủ những tơ dài

24.Hoa kia rẽ cánh không người quét cho

25.Sân xuân sớm thơm tho trăm thứ

26.Chốn họa đường lựa bậc đàn tranh

27.Giang Nam năm khúc rành rành

28.Mượn đầu năm móng giở tình Sóc phương

29.Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi

30.Âm thư này nhắn gởi khôn thông

31.Gối riêng nước mắt tuôn dòng

32.Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mực tan

33.Bao xuân tới tiếng nhàn gắng gởi

34.Xuân giục người bối rối như tơ

35.Năm dây còn đó sờ sờ

36.Buồn đà đứt ruột khảy chưa rồi đàn

37.Chàng thương thiếp tình hơn núi nặng

38.Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua

39.Dệt đem bức gấm dâng vua

40.Xét lòng dạ thiếp tha cho chồng về.

TÔ HUỆ CHỨC CẨM HỒI VĂN

Bản dịch Nôm của Ngô Thế Vinh

1.Chàng vâng chiếu ra ngoài biên thú

2.Thiếp đưa chàng kiều lộ nẻo xa

3.Mấy lời dặn, hạt châu sa

4.Chút tình ân ái xin là chớ phai

5.Rồi từ đấy tin người vắng vẻ

6.Chốn phòng loan xuân để lạnh lùng

7.Thềm quỳnh dao ngấn rêu phong

8.Màn san hô đã mấy trùng bụi che

9.Đòi phen nghĩ chia ly sợ hãi

10.Chỉ ước ao mau lại gặp cùng

11.Muốn làm trăng sáng bể đông

12.Muốn làm một đám mây lồng đầu non

13.Mây non nọ may còn khi gặp

14.Trăng bể kia soi khắp mọi nơi

15.Những mong được thấy mặt người

16.Ngoài nghìn muôn dặm dài lời tương thân

17.Đường thăm thẳm mấy lần xa cách

18.Ngán chàng còn làm khách ải quan

19.Lá lau khi tiễn mới vàng

20.Nào ngờ mấy độ mai tàn đổi thay

21.Hoa rực rỡ gặp ngày xuân sớm

22.Nỗi lòng xuân khôn dám hé môi

23.Cành dương liễu rủ vì ai

24.Hoa rơi khắp đất nào người quét cho

25.Trước sân cỏ thơm tho sực nức

26.Ôm đàn tranh ra trước họa đường

27.Khúc Giang Nam gảy vì chàng

28.Đem tình gởi đến Sóc phương cõi ngoài

29.Ngoài phương Bắc đường dài xa thẳm

30.Bức âm thư nghìn dặm vắng lâu

31.Pha phôi gối đẫm lệ sầu

32.Giải là quần lụa nhạt màu phai hoa

33.Tiếng hồng nhạn bay qua thổn thức

34.Người ly nhân ruột đứt quặn đau

35.Đàn chưa đứt, ruột đã sầu

36.Oán hờn kết trước cung sau khôn tròn

37.Chàng nhớ thiếp như non tình nặng

38.Thiếp nhớ chàng cũng chẳng lúc khuây

39.Dâng lên một bức thư này

40.Mong ơn Thiên tử tha ngay chồng về.

Bản chữ Hán của bài thơ Tô Huệ chức cẩm hồi văn đã được lưu hành ở Việt Nam từ lâu đời. Theo Hòa thượng Thích Đạt Hảo (1918 – 1996) một thành viên của Hội đồng Chứng minh – Giáo hội Phật giáo Việt Nam (nguyên là trụ trì chùa Pháp Quang, Quận 8 – TP. Hồ Chí Minh) thì bản chữ Hán của bài thơ cổ này tuy ra đời từ lâu nhưng chỉ lưu hành ở Trung Quốc, mãi đến đời các chúa Nguyễn có một số nhà sư từ Trung Quốc sang nước ta truyền đạo đã mang theo kinh điển Phật giáo và nhiều tác phẩm văn học khác - một trong số đó là bài thơ Tô Huệ chức cẩm hồi văn. Tuy chưa rõ là nhà sư nào nhưng có lẽ là Đại sư Thạch Liêm (1633 – 1704), vì nhà sư này được chúa Nguyễn Phúc Chu mời sang truyền đạo đã có mang theo rất nhiều kinh sách vào sứ Đàng Trong từ năm 1695, ông tuy là một nhà sư nhưng cũng là một nghệ nhân điêu khắc, lại thích thơ văn và xem hát tuồng, nên việc ông mang theo một số tác phẩm văn học cũng không phải là chuyện lạ. Hòa thượng Đạt Hảo còn nói cũng bởi do các nhà sư mang sang nên sau đó nhiều nhà sư ở Việt Nam giữ lại những kinh sách này để làm kỷ niệm, có người giữ kinh luận Phật học, cũng có người giữ gìn các tác phẩm thơ văn khác. Bằng chứng cụ thể là chính Hòa thượng cũng có một bản Tô Huệ chức cẩm hồi văn bằng chữ Hán do các tiền bối truyền lại.

Sau khi tham khảo và so sánh với các bản Tô Huệ chức cẩm hồi văn bằng chữ Hán khác, nhận thấy bản của Hòa thượng Đạt Hảo có nhiều ưu điểm hơn nên chúng tôi đã chọn làm bản chuẩn trong quá trình nghiên cứu này.

Bản chữ Hán của bài cổ thi đã có mặt ở miền Nam trước hai bản dịch Nôm của Hoàng Quang và Ngô Thế Vinh, nhưng cũng do sự có mặt của hai bản dịch này đã làm cho sự tích “nàng Tô Huệ thêu gấm” được phổ cập rộng hơn. Đến cuối thế kỷ XIX người ta căn cứ vào nội dung của bài cổ thi và các bản dịch để biên soạn thành bài Nam ai cũng mang tên cũ là Tô Huệ chức cẩm hồi văn, bài ca này gồm 68 câu chưa rõ ai sáng tác: có người nói do ông Phạm Đăng Đàng, cũng có người nói của ông Nguyễn Quang Đại, tuy chưa có cơ sở cụ thể để xác minh, nhưng chỉ xem qua phần ngôn ngữ được sử dụng trong bài ca, trong đó có các từ như: “mần răng”, “răng rứa”, “chừ mô”… cũng đủ chứng tỏ soạn giả của bài ca là người gốc miền Trung. Vào những năm đầu thế kỷ XX, sư Nguyệt Chiếu đã mang bài Nam ai này đến đọc cho Nhạc Khị nghe và chính Nhạc Khị đã chấn chỉnh lại một số lời ca cho phù hợp với chữ đàn của bản Nam ai do ông hiệu đính.

Nhạc Khị đã nghiên cứu bản Nam ai Tô Huệ trong nhiều năm và cũng rất nhiều lần bàn bạc với người bạn thân là Nguyệt Chiếu để cuối cùng từ đó rút ra ý nghĩa “Chinh phụ vọng chinh phu” làm chủ đề sáng tác cho các môn sinh đệ tử và các thành viên trong ban nhạc của ông. Nhưng ông cũng không ngờ rằng, người môn sinh thân yêu của ông là Cao Văn Lầu đã từ chủ đề này sáng tác được một nhạc phẩm tuyệt vời - như một ngôi sao lớn có sức chói chan cả nền âm nhạc Việt Nam, đó là bản Dạ cổ hoài lang - tiền thân của bản Vọng cổ.

CHÚ THÍCH

(1) Bạn đọc có thể xem thêm nguyên văn chữ Hán bài Tô Huệ chức cẩm hồi văn chép trong các sách Âm ca tập VNv.289; Binh thư di bảo VHv.2646; Trúc Đường thuật cổ thi VHv.2144; và các bản dịch Nôm bài thơ này ở Quốc âm thi ca tạp lục AB.643; Quốc âm tùng lục AB.378. Các sách trên đều tàng trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

TB

VỀ BÀI THƠ CỦA CHÚA TRỊNH SÂM
ĐỀ Ở NÚI CHÍCH TRỢ

HỒNG PHI - HƯƠNG NAO

“Chích Trợ sơn”, tên Nôm là núi Chiếc Đũa. Sách Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn, thế kỷ XIX chép: ‘Núi Chích Trợ là một ngọn núi đứng trơ trọi, trông như hình chiếc đũa dựng trong cái vạc. Đứng xa lại trông như hình tòa sen, nên lại gọi là “Liên Sơn”(1). Sách Hoàng Việt địa dư chí” của Phan Huy Chú, ở thế kỷ XIX, cũng chép: “Núi Chích Trợ ở ngoài cửa biển Thần Phù, chót vót lởm chởm đứng một mình, trông như đẽo gọt nhọn đi”(2)

Thực ra núi Chích Trợ hình thù không hề giống chiếc đũa chút nào. Chẳng hiểu tại sao người xưa lại đặt tên núi như thế ? như Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 - 1784) từng nhận xét:

Có lẽ thuở xưa nước biển dâng rất cao, núi Chích Trợ nằm ở cửa Thần Phù mênh mông biển nước. Nhiều vua, chúa, danh nhân nước ta đi kinh lý, hoặc đem quân vào Nam chinh phạt, thường qua lại cửa Thần Phù và núi Chích Trợ. Một số vị đã ghé thuyền lên núi vãn cảnh, đề thơ, như vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, chúa Trịnh Sâm, Bảng nhãn Lê Quý Đôn v.v.

Riêng về chúa Trịnh Sâm (1737 - 1782), các sách như: Lịch triều hiến chương loại chí, Trịnh gia thế phả... đều có chép bài thơ nhà chúa đề ở núi Chích Trợ. Song không hiểu tại sao các sách trên chỉ chép có 6 câu đầu, mất hẳn 2 câu cuối và phiên âm như sau:

Nhất vọng thương mang hải sắc thu,
Thùy tương Chích Trợ chướng hoành lưu.
Cô cao như tước phù ngao cực,
Tủng trĩ vô song áp thẩn lâu.
Thập nhị hải môn tiêu để trụ,
Tam thiên thế giới nhận tiên châu
.

(Theo bản phiên âm của sách: Lịch triều hiến chương loại chí)(3)

Gần đây, chúng tôi đã hai lần đến tìm hiểu những bút tích Hán Nôm đề ở núi Chích Trợ. Hiện nay, núi này tọa lạc trên cánh đồng làng Văn Đức, xã Nga Phú, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Quả thật hình núi không giống “chiếc đũa” chút nào, mà có lẽ giống một “tòa sen” như Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã nhận xét. Núi chỉ cao khoảng gần trăm mét, gồm nhiều phiến đá xếp thành từng lớp. ở giữa, có một cái hang xuyên suốt từ bên này sang bên kia núi. ở vách núi phía bắc, còn thấy khắc hai bài thơ chữ Hán, làm theo thể Đường luật. Một bài của vua Lê Hiến Tông, đề năm Cảnh Thống thứ 4 (1501) và một bài là của chúa Trịnh Sâm, mà các sách nói trên đã chép. Nhưng bản khắc trên núi còn đủ cả 8 câu. Chúng tôi đã bắc thang đến tận nơi, đọc kỹ từng chữ, và xin giới thiệu toàn văn cùng bạn đọc:

御 製 題 隻 著 山
臺 望 滄 茫 海 色 秋
天 將 隻 著 障 橫 流
聳 “峙” 無 雙 壓 蜃 樓
十 二 海 門 標 “砥” 柱
三 千 塵 “界” 認 “仙” 州
挾 超 自 是 英 雄 志
前 席 何 須 更 借 籌
日 南 元 主 題(4)

Phiên âm:

chế đề Chích Trợ sơn
‘Nhất vọng thương mang hải sắc thâu (thu),
Thiên tương Chích Trợ chướng hoành lưu.
Cô cao như tước phù ngao cực,
Tủng trĩ vô song áp thẩn lâu.
Thập nhị hải môn tiêu để trụ,
Tam thiên trần giới nhận Tiên châu.
Hiệp siêu tự thị anh hùng chí,
Tiền tịch hà tu cánh tá trù !
Nhật Nam nguyên chủ đề.

Dịch nghĩa:

Trông ra biển xanh bát ngát một màu thu,
Trời đem núi Chích Trợ chắn ngang dòng nước.
Một mình sừng sững như con ngao nổi lên giữa biển nâng cột chống trời,
Một mình chót vót như muốn che lấp cả tòa thẩn lâu.
Trong mười hai cửa biển duy ngọn núi này vút cao như trụ đá,
Khắp ba nghìn cõi trần đều coi đây là một cõi tiên.
Chí khí anh hùng mang hoài bão từ đó,
Thuở trước nào đâu đã trù tính đến !

Tạm dịch thơ:

Thơ chúa đề núi Chích Trợ
Bát ngát trông vời biển sắc thâu,
Trời đem Chích Trợ chặn dòng sâu.
Một mình sùng sững nâng ngao cực(5),
Riêng dáng hiên ngang chắn thẩn lâu(6).
Hơn chục cửa sông nêu trụ đá,
Ba ngàn cõi thế đáng Tiên Châu.
Anh hùng chí khí vươn từ đó,
Thuở trước nào ai có tính đâu !

Thuở xưa, cả vùng này nước biển mênh mông, nên núi Chích Trợ như (cây) cột mốc của cửa biển Thần Phù. Nhiều vị vua nước ta thời cổ khi đem quân đi dẹp giặc phương Nam, cũng đã từng qua nơi đây, được sử sách ghi lại qua sự tích La Viện, một Đạo sĩ đã có công dẫn thuyền vua vượt qua sóng dữ, nên sau khi ông mất, được lập đền thờ và ban hiệu là “áp Lãng chân nhân”(7).

Bởi vậy, núi Chích Trợ là một di tích quý giá, chẳng những có bút tích của một số danh nhân nước ta, mà còn là một địa danh lịch sử, nên cần được gìn giữ, bảo vệ một cách chu đáo, trân trọng !

CHÚ THÍCH

(1) Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. KHXH., Hà Nội 1992, T.1, tr.53.

(2) Trịnh Như Tấu - Trịnh gia chính phả - Nxb. Ngô Tử Hạ, 1936.

(3) Sđd., tr.53.

(4) Phía dưới còn một dòng chữ Hán nhỏ, đã bị mất hết nên đọc không được.

(5) Ngao cực: là một loại rùa biển. Theo thần thoại Trung Quốc, thuở hồng hoang bà Nữ Oa luyện đá ngũ sắc vá trời, lấy bốn chân con ngao làm đá kê cột chống trời.

(6) Thẩn lâu: lâu đài do hơi con ‘Thẩn’ tạo nên trên mặt biển bởi hơi nước do mặt trời phản chiếu tạo nên.

(7) Theo Lê Thánh Tông thơ văn và cuộc đời, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1998, tr.284 và theo Hồ Nguyên Trừng - Nam Ông mộng lục, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1999, tr.90.

TB

CUỘC GẶP GỠ SỨ THẦN CỦA VIỆT NAM VÀ TRIỀU TIÊN Ở TRUNG QUỐC TRỌNG TÂM LÀ CHUYỆN XẢY RA TRONG THẾ KỶ XVIII

TARO SHIMIZU

Thực tế cho thấy sứ thần hai nước Việt Nam, Triều Tiên gặp nhau không nhiều. Từ thế kỷ X, sau khi giành được độc lập từ Trung Quốc, các triều đại của nước Việt đều cử sứ thần sang Trung Quốc triều cống. Bên cạnh đó, ở Triều Tiên từ thời Tam Quốc cũng sang Trung Quốc tuế cống. Người ta cho rằng, có lẽ cơ hội sứ thần hai nước gặp nhau ở nơi đất khách quê người này nhiều hơn sử sách ghi chép. Có thể khẳng định, cuộc gặp sớm nhất của sứ thần 2 nước là năm 1597 (Vạn Lịch 25) giữa hai nhân vật: Phùng Khắc Khoan - sứ thần Việt Nam và Lý Túy Quang - sứ thần Triều Tiên. Tiểu sử của hai sứ thần này và chuyện giao lưu giữa họ thì Kim Vĩnh Kiến đã giới thiệu từ rất sớm qua vấn đáp và thơ xướng họa của hai tác giả nói trên với tiêu đề “Chuyện vấn đáp và xướng họa của sứ thần nước An Nam”(1). Trong truyện kí của Triệu Hoàn Bích cũng có một vài bình luận về thơ của Lý Túy Quang - là nhà thơ được đánh giá cao trong văn nhân Việt Nam(2).

Cuộc gặp gỡ của sứ thần Việt - Triều mà chúng tôi nói đây thực tế đã có một vài luận văn, bài viết đề cập tới. Hơn nữa, những năm gần đây ở Việt Nam có nhiều bài nghiên cứu đề cập tới lịch sử quan hệ Việt - Triều, phần nào phản ánh quan hệ mật thiết về kinh tế của hai nước. Trong số đó có bài của Nguyễn Minh Tuân Thêm 4 bài thơ xướng họa giữa Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên đăng trên Tạp chí Hán Nôm phát hành ở Việt Nam, số 4-1999(3). Từ xưa đến nay nói về giao lưu Việt - Triều người ta chỉ chú ý tới cuộc gặp giữa Phùng và Lý. Thực ra cũng đã có các cuộc tiếp xúc như họ Phùng, họ Lý. Đó là cuộc gặp gỡ giữa Từ Hạo Tu sứ thần Triều Tiên với Lê Quý Đôn và đoàn sứ bộ Việt Nam sau này trên sông Nhiệt Hà năm 1790. Có lẽ cuộc gặp gỡ trên là cuộc gặp tiêu biểu nhất trong quan hệ giao lưu giữa 2 nước cuối thế kỷ XVIII. Tất nhiên quan hệ ngoại giao của 2 nước không chỉ dừng lại ở đây. Lần này, tìm tòi trong mảng tư liệu của Triều Tiên và Việt Nam chúng tôi phát hiện ra còn khá nhiều tư liệu đánh dấu quan hệ giao lưu của 2 nước thế kỷ XVIII. Với vấn đề này, mục đích của bài viết là muốn góp thêm vài tư liệu bổ sung vào những công trình đã được công bố và bài nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuân nhằm làm sáng tỏ một phần thể chế triều cống ở thế kỷ XVIII.

I. Cuộc gặp của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên năm 1760

1/ Diện mạo của 2 sứ thần.

Trước tiên chúng ta cùng xem xét cuộc gặp gỡ giữa sứ thần Triều Tiên và đoàn Lê Quý Đôn - sứ thần Việt Nam mà Nguyễn Minh Tuân đã đưa ra. Đoàn sứ thần Việt Nam dự định đến Bắc Kinh vào mùa đông năm 1760, nhưng đoàn đã lên đường chậm 1 năm do Thái Thượng Hoàng của triều Lê - Hoàng đế ý Tông mất. Theo Đại Nam sử ký toàn thư, tục biên quyển 4, mục ghi năm Cảnh Hưng 20 (1759) thì thấy ngày tháng lên đường không rõ ràng nhưng có chi tiết: "Cử Chánh sứ Trần Huy Mật, Phó sứ Lê Quý Đôn, Trịnh Xuân Thụ, sang Thanh tuế cống và báo cáo việc Hoàng đế ý Tông mất"(4).

Dưới đây xin đề cập diện mạo của sứ thần 2 nước:

1. Lê Quý Đôn (1726 - 1784) tự là Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, người xã Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ. Năm Cảnh Hưng 13 (1735) đỗ Bảng nhãn. Ông không chỉ hoạt động tích cực trong chính quyền nhà Lê thời kỳ cuối mà còn để lại nhiều tác phẩm. Trong sách Nhân vật chí của một tác giả không rõ tên tuổi đã ghi lại rất tỉ mỉ tiểu sử của ông(5).

2. Cùng đi với Lê Quý Đôn có Phó sứ Trịnh Xuân Thụ (1704 - ?) là người xã Hoa Lâm, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc. Năm Cảnh Hưng 9 (1748) đỗ Đệ nhị giáp(6). Ngoài việc đi sứ sang Bắc Kinh cùng đoàn Lê Quý Đôn, ông còn làm quan đến chức Đông các học sĩ, khi mất được tặng Thị độc. Ngoài tập thơ Sứ hoa học bộ thi tập ông để lại, chúng ta không biết gì hơn về ông(7). Ngay tựa đề của tập thơ dường như có ghi lại việc đi sứ sang Trung Quốc nhưng tìm trong Thư mục Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm không thấy tập thơ này.

3. Chánh sứ Trần Huy Mật (1710 - ?) người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, trấn Thanh Hóa, đỗ Đệ tam giáp năm Vĩnh Hựu 2 (1736). Lúc đầu ông có tên là Bá Tân, sau đổi thành Huy Mật. Lý lịch của ông không tỉ mỉ bằng Lê Quý Đôn, nhưng theo những tài liệu như Toàn thư, Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký, thì ông là một trong những nhân vật chính trông coi khoa cử(8). Vài năm sau đó ông bị cách chức.

Quay trở lại các sứ thần Triều Tiên. Hàng năm, phía Triều Tiên đều cử sứ thần sang Thanh triều cống. Sách Triều Tiên vương triều thực lục - cuốn sử cái của Triều Tiên không ghi chép cụ thể việc phái sứ thần đi sứ năm Càn Long 25 (1760) như thế nào. Nhưng đáng mừng là trong Đồng văn vựng khảo - tập văn kiện ngoại giao được biên soạn cuối thời Lý, chúng tôi đã tìm được phần liên quan tới vấn đề này.

Trong sách Sử hành lục, tục bổ quyển 7, mục Càn Long 25 có chép: "Từ ngày 2 - 11 đi sứ. Ngày 6 - 4 năm Tân Tỵ phục mệnh. Đoàn gồm có Chánh sứ Hồng Khải Hi - Lại tào phán thư, Phó sứ lễ tào tham phán Triệu Vinh Tiến, Thư trạng quan kiêm trì bình Lý Huy Trung", từ đây chúng ta có thể biết được khoảng thời gian lên đường và trở về của đoàn sứ thần Việt Nam.

Trong phần chú thích bài Thêm bốn bài thơ xướng họa của Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên, Nguyễn Minh Tuân không ghi chép đầy đủ về 3 nhân vật Triều Tiên. Theo Quốc triều bảng mục - sách ghi tên người đỗ đạt trong vương triều Triều Tiên, có ghi về Lý Huy Trung: "Năm Canh Ngọ 26 (1750), vào bảng Điện thí. Bảy người đỗ ất khoa có Thông Đức, Lý Huy Trung, Nhữ Thận, Tham Phan, Trực Phó, là người Toàn Châu" (quyển 16). Cũng trong Triều Tiên vương triều thực lục thấy có ghi chép tản mạn về nhân vật này. Lý Huy Trung làm quan đến chức Đại tư hiến, tên của ông ta còn lưu lại cho đến khi Chánh Tổ lên ngôi(9).

4. Phó sứ Triệu Vinh Tiến (? - 1775)(10) trong Quốc triều bảng mục (quyển 17) có ghi: "Năm Bính Tý 32 (1756) vào bảng Đình thí. Ba mươi người đỗ Bính khoa có Triệu Vinh Tiến, Nhữ Tiếp, Phán Thư là người Dương Châu". Theo Nhân vật chí trong Thư mục Hán Nôm của Việt Nam, lại là Triệu Vinh Kiến. ở đây có sự nhầm lầm giữa Tiến thành Kiến. Nhân vật này cũng làm quan đến chức Đại tư hiến(11). Tên ông còn xuất hiện trong sách Triều Tiên vương triều thực lục.

5. Chánh sứ Hồng Khải Hi (1703 - 1771) chúng tôi sẽ không nói tập trung mà đề cập trong cả 3 phần do có rất nhiều tư liệu nói về nhân vật này.

Sách Quốc triều bảng mục, quyển 16 có chép: "Năm Đinh Tỵ 13 (1737) Hồng Khải Hi vào bảng Biệt thí, một người đỗ Giáp khoa, là Nội giáo quan Hồng Khải Hi, hiệu là Thuần Phủ, kiêm Lại phán đề học, năm ất Tị vào triều, năm Tân Mão mất". Trong Triều Tiên vương triều thực lục có nhiều chỗ ghi chép về nhân vật này, phần cuối có nói chức danh của ông khi mất là Phụng Triều Hạ. Ông Woodside cũng có ghi chép về sự nghiệp của Hồng Khải Hi khi biên soạn cuốn Đông triều văn hiến bị khảo, cuốn này được biên soạn dựa trên cơ sở cuốn Tằng bổ văn hiến bị khảo(12). Hồng Khải Hi là người liên quan mật thiết tới luật quân dịch thi hành năm 1750 mà mục tiêu là cải cách quân chế và tài chính. Ông tham gia biên tập cuốn Quân dịch sự thực phát hành năm 1752, và cuốn Tam vận thanh vựng phát hành năm 1751. Cuốn Tam vận thanh vựng chúng tôi chưa được xem qua nên không nắm được nội dung như thế nào, nhưng xem xét từ năm phát hành thì có thể thấy người ta đã không ghi chép gì về việc giao lưu với đoàn Lê Quý Đôn - sứ thần Việt Nam. Dù có tham gia những việc nói trên, nhưng Hồng Khải Hi chỉ thực sự nổi tiếng khi ông đến Nhật Bản với chức danh Chánh sứ Thông tín sứ. Thông tín sứ lần này được phái đi năm Enkyo (Diên hưởng) 5 (1748) nhân dịp chúc mừng Ieshige kế nghiệp cha. Ieshige là con trai trưởng của tướng quân đời thứ 8 Yoshimune Shogun thoái vị năm Enkyo 2 (tháng 9/1745). Đã có một vài nghiên cứu về Thông tín sử Triều Tiên năm Enkyo 5 này(13).

Hoạt động của viên Thông tín sứ Triều Tiên lần này được ghi lại qua cuốn Phụng sứ thời Nhật Bản văn kiến lục của Tào Mệnh Thái - người cùng đi sứ với Hồng Khải Hi, ngoài ra có thể biết rõ hơn qua nhiều tư liệu còn lại ở Nhật Bản như cuốn Tùy sai nhật lục của Hồng Cảnh Hải để lại chúng ta được biết tường tận hơn. Hồng Cảnh Hải là con trai thứ của Hồng Khải Hi, ông làm tướng quân, và đảm nhận công việc phiên dịch khi đi sứ cùng với cha. Cũng giống như các Thông tín sứ và Hồi đáp loát hoàn sứ đã từng được cử đi sứ trong lịch sử, Thông tín sứ Triều Tiên - Chánh sứ Hồng Khải Hi cũng có nhiều cuộc gặp gỡ giao lưu văn hóa ở một số nơi của Nhật Bản(14). Tại Nhật Bản hiện vẫn còn một vài bài thơ là bút tích của Hồng Khải Hi.

Những người như Hồng Khải Hi sang Bắc Kinh năm 1760 đều là những người đã từng sang Nhật Bản nên có thể gọi họ là Người quốc tế của thế giới Đông á đương thời. Và đương nhiên đoàn đại biểu của Việt Nam, Triều Tiên lúc đó không chỉ là đoàn chính trị, mà còn là đoàn văn nhân. Tuy nhiên trong tập thơ Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn chúng tôi không tìm thấy đoạn nào nói tới việc Hồng Khải Hi kể lại các chuyến thăm Nhật của ông trong cuộc giao lưu với sứ thần Việt Nam.

2/ Giao lưu của đoàn sứ thần hai nước qua Kiến văn tiểu lục.

Theo Nguyễn Minh Tuân tổng cộng có 7 bài thơ xướng họa trong cuộc gặp gỡ giữa sứ thần hai nước, trong bài nghiên cứu đó giới thiệu 4 bài thơ chưa từng được công bố đó là: Tống Triều Tiên quốc sứ của Lê Quý Đôn (2 bài); Triều Tiên quốc sứ Hồng Khải Hi họa thi của Hồng Khải Hi và bài Lý Huy Trung họa thi của Lý Huy Trung.

Qua tìm hiểu tư liệu phía Việt Nam có 5 đầu sách ghi lại cuộc gặp gỡ của sứ thần hai nước năm 1760: Quế Đường thi tập, có 7 bài thơ ghi lại cuộc gặp gỡ giữa các sứ thần Triều Tiên và đoàn Lê Quý Đôn. Bắc sứ thông lục, hiện còn quyển 1 và 4, nhưng chỉ có quyển 4 ghi chép về quan hệ giao lưu với sứ thần Triều Tiên. Thánh Mô hiền phạm lục Quần thư khảo biện, 2 cuốn sách này có đăng bài tựa của Hồng Khải Hi. Trong Quần thư khảo biện có 2 bài thơ, một bài của Hồng Khải Hi và một bài của Lý Huy Trung và Kiến văn tiểu lục.

Bây giờ chúng ta hãy thử xem xét cuộc gặp của đoàn sứ bộ hai nước qua sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn. Sách mà chúng tôi sử dụng là cuốn Kiến văn tiểu lục, kí hiệu VHv.1322. Mặc dù có chỗ phải đoán nhưng phần nào cũng có thể hiểu được nội dung của nó. Dưới đây xin đưa ra những phần có đề cập tới quan hệ giao lưu giữa sứ thần hai nước. Đầu cuốn sách viết: “Nước Cao Ly về thời Đường thuộc An Đông đô hộ phủ. Đến thời Thạch Tấn, Vương Kiến mới khôi phục lại nước, bao gồm Tân La và Bách Tế vào trong bản đồ. Trải qua đời Tống, đời Nguyên đến đầu đời Minh Thái Tổ mới bị diệt. Họ Lý lên thay ngôi lấy niên hiệu cũ là Triều Tiên. Từ Đại Minh đến nay trải qua gần 900 năm, mới chỉ có hai họ thay ngôi vua, đó cũng là điều khiến Trung Quốc phải hổ thẹn. Người dân hiền lành cẩn thận, ham đọc sách, thạo văn học, trọng nghi lễ. Sứ thần nước Việt ta trong thời gian đi sứ Bắc Kinh, cùng với sứ nước họ có qua lại, tặng thơ xướng họa cho nhau. Trong năm Vạn Lịch, sứ ta là Phùng Khắc Khoan và sứ Triều Tiên Lý Túy Quang cùng xướng họa. Túy Quang viết tự cho tập thơ của Phùng Công (tức Phùng Khắc Khoan). Mùa đông năm Canh Thìn niên hiệu Cảnh Hưng, ta và Trần Huy Mật, Trịnh Xuân Thụ, đến Yên Kinh. Hôm trừ tịch, gặp sứ nước ấy là Hồng Khải Hi, Triệu Vinh Tiến, Lý Huy Trung ở Hồng Lô quán. Bày tiệc bút đàm, càng tăng thêm tình hữu hảo, sau khi về quán, lại sai 2 vị thiếu khanh mang thổ sản đến tặng”.

Lê Quý Đôn không chỉ biểu lộ sự ngạc nhiên của mình về việc vương triều Triều Tiên chỉ thay đổi hai lần trong vòng 900 năm, mà còn đánh giá tốt phong cách của người Triều Tiên. Ông cũng ghi lại cuộc gặp gỡ giữa 2 nhân vật Phùng và Lý, đại diện tiêu biểu của hai nước Việt - Triều: “Năm mới, lại sai 3 người con là Hồng Tán Hối, Triệu Quang Quỳ, Lý Thương Phượng đến chúc mừng, lưu lại kinh 2 tháng thư từ qua lại đều hay cả. Đêm giao thừa gửi một bức thư rằng: Từng xem bản đồ biết đến quý bang, Đông Nam xa cách, chỉ e trân ngựa đuổi nhau cũng không kịp. Nay được gặp, ngồi cùng chiếu mà thực chẳng ngờ, vội vàng không chỉnh đốn, nhớ mong khôn xiết. Trước khi chia tay, được người nhà trao cho bức thư quí báu. Khi trở về mở ra xem thấy trong đó có ý rất khiêm tốn và trịnh trọng, quý hóa khôn xiết. Xây lầu cao, đón bạn hiền bọn chúng tôi lẽ nào lại không có cái ý như thế, ngặt vì công việc nên đều không gặp được nhau, vì thế lấy làm hận. Quạt giấy là sản phẩm đặc biệt của nước chúng tôi nên dùng nó để ghi lại di ý của Ngô Cảo và Trịnh Trữ. Rất mong ngài giữ lấy”.

Ở đây, chúng tôi muốn nói tới 3 nhân vật phía Triều Tiên được cử sang làm sứ giả ở Việt Nam nhân dịp năm mới. Thứ nhất là Triệu Quang Quỳ - con trai thứ của Phó sứ Triệu Vinh Tiến. Trong đoạn nói về Triệu Vinh Tiến sách Quốc triều nhân vật chí xuất bản năm Long Hi 3 (1909) cuối thời Lý có ghi như sau: "Ông có 3 em trai, xương Quỳ đỗ Văn khoa làm chức Đại Tư Gián, Quang Quỳ giữ chức Quận Thủ, Tường Quỳ giữ chức Đô Chính". Thứ 2 là Lý Thương Phượng theo Quốc triều bảng mục là con trai của Lý Huy Trung. Thứ 3 là Hồng Toản Hối là con trai thứ 4 của Chánh sứ Hồng Khải Hi.

Tiếp đó có tiểu dẫn của Hồng Khải Hi đáp thơ của Trần Huy Mật và 4 tiểu dẫn được coi là của Hồng Khải Hi viết cho Lê Quý Đôn, Trịnh Xuân Thụ, Trần Huy Mật, và một tiểu dẫn của Lý Huy Trung cho 3 sứ thần Việt Nam. Tất cả các đoạn này đều nói về niềm vui khi gặp nhau, nỗi buồn khi xa nhau của sứ thần hai nước. Nếu nhìn nhận như vậy thì người ta có cảm giác là sứ thần hai nước đã xã giao rất kiểu cách, ngoại giao khuôn sáo. Nhưng thực tế sứ thần 2 nước không chỉ làm thơ tặng nhau, mà họ còn viết thư cho nhau, giống với cách làm của các sứ thần nước khác.

Dưới đây là phần trích dẫn một số đoạn nhỏ: “Kẻ quê mùa này có tác phẩm kém cỏi là Quần thư khảo biện Thánh mô hiền phạm lục, cùng Tiêu tương bách vịnh thi. Hồng Thượng thư có giúp đỡ. Lý học sĩ cũng viết tựa cho Bách vịnh tự thi. Về sau lại đưa cho quan Khâm sai Bạn Tống Lang Trung là Tần Triều Châm xem giúp, họ Tần khen là có văn phong hay, sắc thái sáng sủa”.

Như đã nói ở trên, trong Quần thư khảo biện Thánh mô hiền phạm lục, có lời tựa của Hồng Khải Hi. Còn tập thơ Tiêu tương bách vịnh, theo Nguyễn Minh Tuân không còn nữa. Và sau cùng là: “Năm Quý Tỵ bạn đồng niên của ta là Nguyễn Diêu phụng đi sứ sang Bắc Kinh, có gặp Phó sứ Triều Tiên Lý Trí Trung, người này nhận mình là cháu của Lý Huy Trung học sĩ. Trí Trung lại nói chuyện là chú mình cùng Lê Quế Đường của Quý quốc kết bạn văn chương. Nay có bức thư gửi cho tôi có ý hỏi thăm tới kẻ quê mùa nay đang giữ chức gì, mong cho được bình an”.

Năm Quý Tỵ tức năm 1773. ở đây Lý Chí Trung biết rằng trước đây Lê Quý Đôn và chú mình đã từng giao lưu gặp gỡ với nhau tại Bắc Kinh, nên khi gặp có đề cập tới việc này. Theo Quốc triều bảng mục Lý Chí Trung thi đỗ năm Anh Tổ Tân Tỵ (1761). Mùa đông năm 1772 ông được nhận chức Lại tào phán thư, được phái đi sứ sang Bắc Kinh. Năm đó phía Việt Nam cũng sang Thanh tuế cống, trong đoàn có Chánh sứ Đoàn Nguyễn Thục và Phó sứ Vũ Huy Đình(15).

Thêm nhân vật nữa là Nguyễn Diêu (1728 - ?) theo Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký thấy tên của người này có trong Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (khoa Cảnh Hưng thứ 13 (1752) cùng Lê Quý Đôn). Người này nguyên là Nguyễn Xuân Huyên, người xã Hoàng Xá, huyện Thư Trì, trấn Sơn Nam hạ.

Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn dùng những lời hay ý đẹp để nói về sứ thần Triều Tiên. Còn phía Triều Tiên đánh giá, nhìn nhận sứ thần Việt Nam như thế nào ? Thật đáng tiếc là người ta không tìm thấy tài liệu gì ghi chép về chuyến sang Bắc Kinh lần này của đoàn Triều Tiên. Nhưng trong Đồng văn vựng khảo bổ biên quyển 5 mục sứ thần biệt đơn, có đăng sơ lược về ghi chép của Chánh sứ Hồng Khải Hi và Phó sứ Triệu Vinh Tiến: “Nước An Nam, Nam Chưởng (quan lại nước Nam) đã có chế độ về mũ áo. Người An Nam lấy lụa mỏng làm mũ áo, hơi giống với nước ta. Chỉ có điều họ búi tóc. Nam Chưởng vốn là đất cũ của họ Việt Thường, họ lấy tơ vàng làm mũ áo, chế độ rất khác thường. Mũ làm bằng gấm vàng như Thác Tử (đeo thêm một đoạn đuôi), trang điểm thêm vàng để rủ ra phía sau, tóc buông như người An Nam. Cách ăn mặc của người phương Nam đại thể khác xa như thế. Điều này cho chúng ta cảm giác là đã nhìn thấy bóng dáng đoàn Lê Quý Đôn - sứ thần Việt Nam, trong nguồn tư liệu ở Triều Tiên.

II. Cuộc gặp gỡ khác của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên

Bài nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuân chỉ nói tới cuộc gặp gỡ của sứ thần 2 nước trong năm 1760 và Woodside cũng chỉ đề cập đến cuộc gặp của đoàn sứ thần Việt Nam và Triều Tiên năm 1760 tiêu biểu là hai nhân vật Phùng Khắc Khoan và Lý Túy Quang. Thế nhưng, sứ thần 2 nước không chỉ gặp nhau 2 lần này. Trong bài viết này, chúng tôi cũng không thể đưa ra những khảo sát sâu sắc hơn về mối quan hệ đó do bài viết có giới hạn, nhưng chúng tôi cũng cứ mạnh dạn đưa ra một vài nhận định sau:

Trong Hoàng Việt thi tuyển quyển 5 tập hợp các bài thơ của Việt Nam từ thời Lý đến cuối thời Lê có đăng 2 bài thơ thất ngôn của Nguyễn Công Ngột (1680-1732) viết về Lý Thế Cẩn và Dụ Tập Nhất. Nguyễn Công Ngột là người xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc. Ông là một trong 15 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, năm 1700(16). Ông là nhân vật trung tâm của Luật cải cách hàng loạt tiến hành trong những năm 1720-1729. Năm 1732 mất chức, ông bị buộc phải tự sát(17). Theo Toàn thi năm Vĩnh Thịnh 14 (1718), cụ thể tháng 4-1718 ông rời Việt Nam, trở về nước tháng 9 năm sau(18).

Trong Túc tông thực lục, quyển 63 nói về Lý Thế Cẩn và Dụ Tập Nhất mà Nguyễn Công Ngột có làm thơ tặng, mục chép tháng 3-1719 có nói: Mùa đông năm ất Mùi, Chánh sứ Dụ Tập Nhất và Phó sứ Lý Thế Cẩn cùng bọn Trạng quan Trịnh Tích Tam từ Yên Kinh trở về. Theo Quốc triều bảng mục, Dụ Tập Nhất thi đỗ năm Canh Thân niên hiệu Túc Tông (1680), tháng 3-1718 nhận chức Hình tào phán thư làm Chánh sứ đi cống Thanh. Còn Lý Thế Cẩn thi đỗ năm Đinh Sửu niên hiệu Túc Tông (1697), 1718 nhận chức Lễ tào phán thư, và các nhân vật này đều được phái sang Bắc Kinh.

Sách Hoàng Việt thi tuyển quyển 6 có thơ Hồ Sĩ Đống (1739-1795) tặng các sứ thần Triều Tiên là Lý Quang, Trịnh Vũ Thuần, Y Phường khi về nước. Hồ Sĩ Đống là người xã Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Năm Cảnh Hưng 3 (1772) đỗ Tiến sĩ đệ nhị giáp. Trong khoa thi này Lê Quý Đôn làm giám thị. Từ năm Cảnh Hưng 39 (1778) Hồ Sĩ Đống được cử đi cống. Sách Toàn thư không ghi chép việc sứ thần đi sứ, nhưng trong phần Chính biên quyển 45 Khâm định Việt sử thông giám cương mục, mục ghi năm Cảnh Hưng 38 (năm 1777) có chép: “Mùa đông tháng 12 sai bọn Tả thị lang Vũ Trần Thiệu đi sứ sang Thanh”. Trong Lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có ghi đoàn sứ thần Việt Nam đi cống là tháng 5 - 1778(19), có lẽ ghi lại theo cuốn Đại Thanh lịch triều thực lục.

Về Đông Chí sứ người Triều Tiên sang Bắc Kinh tháng 1-1778, trong Chính tổ thực lục quyển 4, mục ghi tháng 10 niên hiệu Chánh Tổ 1: Năm Mậu Tuất, cho mời Đông chí và Trần tấu cùng Chánh sứ Hà Ân Quân Quang, Phó sứ Lý Khôn, Thư Trạng quan Lý Tại Học đến để từ biệt vua. Vậy nhân vật Lý Quang trong Hoàng Việt thi tập phải chăng chính là Hà Ân Quân Lý Quang ? Rõ ràng là không có sự thống nhất giữa tên của người mà Hồ Sĩ Đống tặng thơ với các nhân vật khác ngoại trừ Lý Quang. Theo sách Triều Tiên vương triều thực lục thấy có quyết định phái cử 3 người là Lý Quang, Trịnh Vũ Thuần và Y Phường đi sứ năm Chánh Tổ 2 (tháng 9-1778)(20). Một năm sau, tháng 1-1779 thì vào triều. Cuối năm 1777 đoàn Hồ Sĩ Đống - sứ thần Việt Nam lên đường nếu gặp đoàn Lý Quang, Trịnh Vũ Thuần, Y Phường - sứ thần Triều Tiên, thì phía Việt Nam ắt phải ở lại Trung Quốc đến cuối năm 1778.

Thơ xướng họa của Hồ Sĩ Đống ngoài Hoàng Việt thi tuyển, còn có cả trong Lãnh trai thư tịnh thế tập quyển 2 của Phác Đắc Cung. Chính Phác Đắc Cung được sang Bắc Kinh với tư cách là Thứ tu của Phó sứ tiến hạ. Ông để lại một tác phẩm mang tên Lục Dương lạc. Về thơ cũng gần giống với thơ trong Hoàng Việt thi tuyển nhưng trong đó có chép: Một ngày sau tiết lập xuân năm Mậu Tuất sứ thần Triều Tiên Y Phán Thư phụng trình và người tặng thơ hoàn toàn khác với người tặng trong Hoàng Việt thi tuyển. Ở đây năm Mậu Tuất chính là năm 1778. Nếu tiêu đề này đúng thì sứ thần 2 nước đã phải gặp nhau ở Bắc Kinh vào tiết Lập xuân năm 1778. Hiện nay cũng chưa có cách nào để lấp đi sự chênh lệch về thời gian này. Có lẽ sứ thần 2 nước đã gặp nhau từ cuối năm 1778 đến đầu năm 1779, hay sự ghi nhận của Phác Đắc Cung ngày lập xuân năm Mậu Tuất là sai ? Chúng ta đành chờ đợi những công trình nghiên cứu sau này. Nhân đây xin nói thêm khi đoàn Hồ Sĩ Đống vào triều người ta đã phát hiện ra một nhân vật giả dạng người Thanh từ tóc tai đến hình dáng, giả làm gia nhân Hồ Sĩ Đống trà trộn vào đoàn sứ thần Việt Nam nên đã xảy ra nhiều vấn đề lớn. Về phía Triều Tiên, Trịnh Vũ Thuần thi đỗ năm Nhâm Thìn niên hiệu Anh Tổ (1772), ông được giữ chức Tạ ân sứ thư trạng quan (Chấp nghĩa). Thêm nữa, nhân vật Y Phường thi đỗ năm Tân Mùi thời Anh Tổ (1751), ông nhận chức Tạ ân sứ phó sứ (Lễ tào Phán thư).

Sau cùng trong quyển 6 Hoàng Việt thi tuyển có đăng thơ xướng họa của Đoàn Nguyễn Thục bài Tống Triều Tiên quốc sứ Y Đông Thăng, Lý Chí Trung. Đoàn Nguyễn Thục (1728-1783) là người xã Hải Yên, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam hạ. Cũng như Lê Quý Đôn và Nguyễn Diêu, năm 1752 niên hiệu Cảnh Hưng 13 ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Năm Cảnh Hưng 34 (1773) Đoàn Nguyễn Thục được cử làm Chánh sứ đi Bắc Kinh. Lý Chí Trung xướng họa cùng Đoàn Nguyễn Thục, cũng trao đổi trò chuyện với Nguyễn Diêu. Lý Chí Trung lại chính là cháu của Lý Huy Trung - người mà Lê Quý Đôn đã từng trò chuyện. Lê Quý Đôn đã đề cập đến cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Diêu và Lý Chí Trung cùng thời gian đó trong Kiến văn tiểu lục, nhưng không nói đến cuộc gặp gỡ của Đoàn Nguyễn Thục với sứ thần Triều Tiên. Còn nhân vật Y Đông Thăng thi đỗ năm Mậu Dần thời Anh Tổ (1746), sứ thần lần này nhận chức Tiến hạ tạ ân kiêm Tam tiết niên cống hành phó sứ (Lễ tào Phán thư).

Ngay cả phía Triều Tiên cũng có một vài tư liệu đánh dấu quan hệ giao lưu của 2 nước. Trong Lãnh trai thư phổ thế tập quyển 2 của Phác Đắc Cung, ngoài những bài thơ xướng họa của Hồ Sĩ Đống còn có cả thơ của Nguyễn Trọng Đương (1724 - 1786). Nguyễn Trọng Đương người xã Trung Cần, huyện Thanh Chương, trấn Nghệ An. Năm Cảnh Hưng 30 (1769) đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Năm đó Trần Huy Mật có tham gia coi thi. Theo Việt Nam khoa bảng lục hội yếu, năm 1761 Nguyễn Trọng Đương sang triều Thanh(21), nhưng năm 1761 Nguyễn Trọng Đương vẫn chưa thi đỗ, nên Nguyễn Trọng Đương không thể có mặt trong đoàn sứ bộ của Lê Quý Đôn. Nhưng bài Phụng trình sứ thần Triều Tiên Y Phán Thư của ông ta lại có trong Lãnh trai thư tịnh thế tập. Ở đây nhân vật Y Phán Thư mà Nguyễn Trọng Đương tặng thơ có phải là nhân vật Y Phán Thư mà Hồ Sĩ Đống tặng thơ bài Phụng trình sứ thần Triều Tiên Y Phán Thư ? Theo Đồng văn vựng khảo Y Phường nhập triều với chức Phó sứ (Lễ tào phán thư), nhưng nhân vật Y Đông Thăng mà Đoàn Nguyễn Thục tặng thơ khi gặp tại Bắc Kinh năm 1773, cũng có chức danh là Phó sứ (Lễ tào phán thư). Phải chăng Nguyễn Trọng Đương đã có mặt trong đoàn sứ thần của Đoàn Nguyễn Thục năm 1773, hay đoàn Hồ Sĩ Đống năm 1778 ? Sau đó, ông ta bị chết trận năm 1786 khi đánh nhau với quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ trên đất Bắc(22).

Trong Lãnh trai thư tịnh thế tập của Phác Đắc Cung có bài thơ của 3 sứ thần Việt Nam. Thơ của 3 người này đều làm khi dự lễ mừng thọ Hoàng đế Càn Long 80 tuổi năm Càn Long 55 (1790) cùng với Nguyễn Huệ - Quốc vương nước An Nam.

1. Thơ của Phan Huy ích (1751-1822) có tựa đề Phụng trình Triều Tiên quốc tiến hạ sứ Từ Phán Thư. Phan Huy ích là người xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An, là nhà chính trị trong thời kỳ đầu của nhà Nguyễn, là cha đẻ của Phan Huy Chú - nhà văn, nhà chính trị thời kì đầu nhà Nguyễn. Ông thi đỗ cuối thời Lê, tức năm Cảnh Hưng 38 (1775), nhưng lại tham gia chính quyền Tây Sơn trên đất bắc. Năm 1790 ông được cử sang Bắc Kinh, giúp Nguyễn Huệ được sắc phong là vua nước An Nam. Nguyễn Huệ là người đã tiêu diệt nhà Lê xây dựng nhà Tây Sơn. Do không muốn giữ mãi quan hệ căng thẳng với triều Thanh khi Nguyễn Huệ đã đại phá được quân Thanh xâm lược do nhà Lê cầu cứu, một mặt ở trong nước phía nam lại mâu thuẫn với anh trai Nguyễn Văn Nhạc, mặt khác cũng phải khống chế Nguyễn Phúc ánh - một gia tộc họ Nguyễn ở Quảng Nam bị nhà Tây Sơn tiêu diệt lại đang có ý định khôi phục lực lượng, mưu đồ làm phản, nên Nguyễn Huệ đã diễn vở kịch cho cháu thay mình, giả làm vua An Nam sang yết kiến hoàng đế Càn Long(23).

2. Thơ của Vũ Huy Tấn. Về tiểu sử của ông ta trong sách Toàn thư tục biên quyển 5 năm Chiêu Thống 2, mục ghi tháng 8-1788: Mùa thu tháng 8, tặc tướng Ngô Văn Sở sai khiến bọn bề tôi cũ của nhà Lê là Nguyễn Nha, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tấn... mang thư của Sùng Công sang gõ cửa nhà Thanh, đến Bắc Kinh đường tắc không đi được. Vũ Huy Tấn đã từng là bề tôi của nhà Lê, nhưng ông cũng ở lại tham gia chính quyền Tây Sơn cùng với Phan Huy ích. Thơ của ông có tựa đề Phụng trình Triều Tiên quốc sứ Từ Phán Thư. Người ta cho rằng nhân vật Từ Phán Thư này là nhân vật mà Phan Huy ích tặng thơ nói trên. Và phải chăng năm Càn Long 55, Từ Hạo Tu đã sang Nhiệt Hà với chức danh Tiến hạ phó sứ(24). Nếu như vậy, bài thơ này của Vũ Huy Tấn chắc chắn được làm vào mùa hạ năm Càn Long 55. Thế nhưng, sách Đại Thanh lịch triều thực lục. Cao Tông Thuần hoàng đế thực lục quyển 1335 có ghi: Mậu Thân tháng 7, năm Càn Long 54 (1789) Chánh sứ nước Nam là Nguyễn Quang Hiển và Phó sứ Nguyễn Hữu Điều cùng bọn Vũ Huy Tấn vào chầu vua. Như vậy, Vũ Huy Tấn được Nguyễn Huệ phái sang Trung Quốc năm 1789(25). Một năm sau, tháng 7 năm Càn Long 55 tổ chức lễ chúc thọ Hoàng đế Càn Long 80 tuổi, nhân dịp này Nguyễn Huệ cũng vào hành cung Nhiệt Hà yết kiến để được sắc phong An Nam quốc vương. Hay Vũ Huy Tấn sau khi vào triều năm 1789, đã không trở về nước ở lại cho đến năm sau, tức là năm Nguyễn Huệ nhập triều để tham dự lễ chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi, nên có thể Vũ Huy Tấn đã gặp gỡ bọn Từ Hạo Tu - sứ thần Triều Tiên ?

3. Thơ của Đào Kim Chung, theo Lãnh trai thư phổ thế tập, có sáng tác bài thơ Kính hòa Triều Tiên quốc phác Kiểm Thư. Tiểu sử của người này không rõ ràng, nhưng Phác Kiểm Thư có thể là Phác Đắc Cung ?

Ngoài ra, trong Yên hành ký của Từ Hạo Tu đã ghi lại rất tỉ mỉ quan hệ giao lưu giữa Nguyễn Huệ - Quốc vương An Nam với các sứ thần Triều Tiên ở Nhiệt Hà, chúng ta cần phải có cơ hội khác để xác định rõ hơn vấn đề này.

Chúng tôi còn có tư liệu đánh dấu quan hệ giao lưu giữa sứ thần 2 nước ở Nhiệt Hà năm Càn Long 55, tư liệu này là Trinh Tô thi tập của Phác Tề Gia. Trong quyển 3 này có đăng 2 bài thơ mang tựa đề Tặng Lại bộ Thượng thư Phan Huy ích, Hiệt Trạch Hầu, Công bộ Thượng thư Vũ Huy Tấn và bài Thứ vận Phan Huy ích đẳng, đại phó sứ tác. Như vậy, phía Việt Nam một mặt diễn vở đưa vua giả vào triều, đồng thời cho sứ thần nước mình giao lưu văn hóa với các sứ thần Triều Tiên.

Lời kết

Sau thế kỷ XVIII có rất nhiều tư liệu ghi chép lại việc sứ thần 2 nước giao lưu, dường như 2 bên đã để ý tới sự tồn tại của mỗi nước. Như trong bức thư Lê Quý Đôn gửi sứ thần Triều Tiên có nhan đề Tằng nhân đồ kinh tri hữu quý bang (qua bản đồ biết quý bang) thì sự tồn tại chỉ được biết trên sách vở, hiện nay và thực tế đã trở thành sự tồn tại trước mắt chúng ta. Xu hướng này cũng không thay đổi ngay cả nhà Nguyễn thay nhà Tây Sơn nắm chính quyền ở đầu thế kỷ XIX , thực hiện công việc triều cống Trung Quốc. Theo Thư mục sách Hán Nôm của Viện nghiên cứu Hán Nôm tìm thấy một vài tư liệu ghi lại việc giao lưu của sứ 2 nước. Ngoài ra trong Yên hành lục của Triều Tiên có thể cũng có ghi chép việc giao lưu của sứ thần 2 nước.

Mặc dù vậy, đoàn Triều Tiên sang Trung Quốc hàng năm không chỉ đơn thuần là triều cống, buôn bán mà mục tiêu chính là thu thập thông tin. Điều này đã đóng góp một vai trò lớn trong việc định hình môn Thực học ở Triều Tiên. Còn ở Việt Nam việc cử đi sứ mấy năm một lần thì như thế nào? Có lẽ không thấy vai trò như vậy ở Việt Nam thế kỷ XVIII - thế kỷ mà Lê Quý Đôn và những người khác đã hoạt động ngoại giao rất tích cực cho dù các chuyến đi sứ còn ít. Còn Từ Hạo Tu giao lưu với Nguyễn Huệ tại Nhiệt Hà năm 1790 và Chánh sứ Hoàng Nhân Điểm - cấp trên của Từ Hạo Tu đã được phái sang Trung Quốc vài lần. Có thể coi những nhân vật này là chuyên gia trong vấn đề ngoại giao với Trung Quốc. Nhưng ở Việt Nam hiếm thấy có nhân vật nào lại được phái sang Trung Quốc nhiều lần như vậy.

Song song với việc đàm phán ngoại giao căng thẳng, phức tạp, các sứ thần cũng nhộn nhịp triển khai giao lưu văn hóa. Mặc dù từ những bài văn, bài thơ sứ thần 2 nước trao đổi cho nhau chúng ta không hề nhận thấy cảm giác khẩn trương hay căng thẳng. Thậm chí xem nội dung thơ xướng họa chỉ thấy mang tính xã giao nhạt nhèo. Nhưng qua đây chúng ta có thể biết được điều kiện cần thiết đối với một nhà ngoại giao là có thể trao đổi những bài thơ kiểu như thế này. Thông qua giao lưu như vậy 2 bên Việt Nam - Triều Tiên trao đổi được những thông tin gì, thực thế chúng ta cũng không biết chính xác. Và thông tin cá nhân thu nhận được có lẽ khác với những báo cáo chính thức. Chẳng hạn như: Báo cáo của sứ thần Triều Tiên đến vua là nhà Lê bị diệt vong vì quân Tây Sơn nắm chính quyền, sự can thiệp của triều Thanh, quá trình hỗn loạn ở Việt Nam cho đến khi vua An Nam nhập triều... tất cả đều không có sự khác biệt lớn với công bố chính thức của triều Thanh(26). Và tất nhiên sứ thần Triều Tiên đã báo cáo thông tin triều Thanh một cách chính xác. Nhưng rất tiếc là chúng tôi không được biết phía Việt Nam báo cáo thông tin của Triều Tiên như thế nào đối với triều đình Việt Nam.

Bài viết này chúng tôi giới thiệu quan hệ ngoại giao của sứ thần 2 nước Việt - Triều không chỉ đơn thuần là nắm bắt lịch sử giao lưu của 2 nước, mà còn muốn xem xét trong ngoại giao, những vấn đề giao lưu của các văn nhân Trung Quốc với sứ Triều Tiên, giao lưu giữa văn nhân Nhật Bản với Thông tín sử Triều Tiên và giao lưu giữa sứ thần Việt Nam với các văn nhân Trung Quốc, rộng hơn là giao lưu văn hóa - ngoại giao khu vực Đông á trong đó có cả Lưu Cầu (Okinawa)...(**)

Lương Thị Thu dịch
Nguyễn Thị Oanh hiệu đính

CHÚ THÍCH

(*) TCHN cho dịch và công bố bài viết của Shimizu Taro - Viện Nghiên cứu Bắc Đông á Đại học Nữ tử Tottori vào mục Tư liệu tham khảo. Nhưng chúng tôi có lược bỏ đôi chỗ, xin thông báo để tác giả và độc giả biết.

(1) Kim Vĩnh Kiến, Quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản, Nxb. Phú Sơn Phòng 1943, tr.235-242. Xem thêm Chi phong tiên sinh tập quyển 5: Ghi chép chuyện vấn đáp của sứ thần An Nam khi được phái đi sứ Bắc Kinh mùa đông năm Đinh Dậu.

(2) Tham khảo cuốn trên của Kim Vĩnh Kiến và bài Truyện Triệu Hoàn Bích người Triều Tiên vượt biển sang Đông Nam à của IwayoiSeiichi (Nham Sinh Thành Nhất), đăng trên Triều Tiên học báo, số 6/1954. Cùng với Đông Nam Á và việc người Triều Tiên bị bắt sang Nhật do cuộc xâm lược Triều Tiên của Toyotomi Hideyoshi, của Katakura Hinoru trong Nghiên cứu của người Triều Tiên vượt biển sang Nhật thời kì cận đại tháng 3/1991, tr.175-185.

(3) Nguyễn Minh Tuân “Thêm bốn bài thơ xướng họa giữa Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên”, Tạp chí Hán Nôm, số 4 (41)-1999.

(4) Sách Toàn thư do Trần Kinh Hòa hiệu hợp bản, 3 quyển, Viện NC Văn hóa Đông Dương Đại học Tokyo, thuộc Trung tâm Văn hiến Đông Dương học, phát hành, 1984-1989. Về quan hệ triều cống của nhà Thanh với nhà Lê hậu kì xin xem thêm cuốn Lịch sử quan hệ Việt - Trung từ thời họ Khúc cho đến chiến tranh Pháp - Thanh, của Yamamoto Tatsuro, Nxb. Yamakawa, 1975. Chương 7: Quan hệ nhà Thanh với nhà Lê hậu kì, mục thứ nhất: Quan hệ triều cống.

(5) Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san thể loại tiểu thuyết, bút kí 6 sách gồm: Nam ông mộng lục, Nam thiên trung nghĩa thực lục, Nhân vật chí - Trần Khánh Hạo, Vương Tam Khánh chủ biên. Học viện Viễn đông Pháp -Thư cục Đài Loan Đài Bắc -Trung Hoa dân quốc 76 xuất bản.

(6) Toàn thư, tục biên quyển 4, mục Cảnh Hưng 9: Tháng 3, Hội thí, lấy đỗ bọn Vũ Miên 13 người. Ngự thí, Nguyễn Huy Oánh Tiến sĩ cập đệ đỗ Đệ tam danh, Trịnh Xuân Thụ Tiến sĩ xuất thân và bọn Vũ Miên 11 người cùng đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.

(7) Ngô Đức Thọ Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993.

(8) Cao Viên Trai - Võ Oanh dịch Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi kí, Bộ giáo dục, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài gòn, 1969.

(9) Triều Tiên vương triều thực lục - Anh Tổ đại vương thực lục quyển 121. Mục ghi tháng 11 năm Quý Tỵ (1773): Cho Lý Huy Trung làm chức Đại tư hiến... Mục ghi tháng 9 năm Bính Thân Chánh Tổ lên ngôi: Năm Canh Dần cho mời gặp vào ngày sinh nhật, có thăm hỏi các bậc khanh tướng... Lí Huy Trung...

(10) Về năm mất của Triệu Vĩnh Tiến mục ghi tháng 11 năm ất Mùi năm thứ 51 cuốn Anh Tổ thực lục: Kỉ Hợi... (Hồng) Lân Hán Nhật, Triệu Vinh Tiến, Lí Đàm đều qua đời. Hoàng thượng kinh ngạc mới hỏi lại "Có phải Nhật chăng", rằng: "Thưa đúng như vậy" ? Vua than tiếc mãi không thôi. Nay mất 3 bề tôi, lòng ta nhớ thương không kể xiết. Bèn làm bài văn tế, sai quan lễ đến tế cả 3 nhà.

(11) Anh tổ thực lục, quyển 118, mục tháng 3 năm Nhâm Thìn, năm thứ 48.

(12) A.B. Woodside, Vietnam and Chinese Model" A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century. Canbridge. Mass. Harvard Univ Press, Paperback Edition,1988. Preface to the Paperback Edition.

(13) Được tóm tắt trong Ghi chép về tình hữu hảo và mối quan hệ láng giềng thân thiện; Đại hệ Triều Tiên thông tín sứ; năm Enkyo, Mậu Thìn, quyển 6, do Tân Cơ Tú và Trọng Vĩ Hoằng biên tập. Nxb. .Minh Thạch,1994.

(14) Về tranh, thơ xướng họa, biển ngạch, câu đối... xin xem thêm bài Chùa Thanh Kiến và Thông tín sứ Triều Tiên, trong cuốn Nhận thức về Triều Tiên của dân chúng thời cận đại về thế giới của những kẻ giết người Đường (Trung Quốc) đã nêu trên.

(15) Toàn thư, tục biên, quyển 5, mục cuối năm Cảnh Hưng 32 (1772): "Sai Chánh sứ Đoàn Nguyễn Thục, Phó sứ Nguyễn Huy Diên, Nguyễn Dao sang Thanh tuế cống và trình tấu".

(16) Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi kí, quyển 3, Sđd.

(17) Toàn thư, tục biên, quyển 2, mục ghi năm Vĩnh Khánh 4: "Tháng 11, biếm Tham tòng bộ Lại Thượng thư Thái Bảo Sóc quận công Nguyễn Công Ngột làm Tuyên Quang thừa chính sứ, được ít lâu buộc phải chết. Công Ngột có công giúp vua, được Nhân vương tín nhiệm. Ngột từ khi gặp vua hết lòng vì nước, canh tân, sửa đổi tận cùng, nhưng tính khí chuyên quyền lấy tài năng khinh người nên nhiều người ghét, kết làm bè đảng, về sau chết vì nạn. Ông là người Phù Chẩn, Đông Ngàn. Đầu năm Cảnh Hưng mới được quy táng.

(18) Toàn thư, tục biên, quyển 4, mục ghi năm Vĩnh Thịnh 14: "Tháng 4 mùa hạ, Nguyễn Công Ngột, Nguyễn Bá Tông sang Thanh theo thông báo vua Hi Tông mất và xin được phong vương. Trên đường trở về Bá Tông mất". Mục ghi năm Vĩnh Thịnh 15: "Tháng 9, sứ thần Nguyễn Công Ngột từ Yên Kinh trở về... Lễ bộ có công văn rằng: "Hoàng đế nhà Thanh chuẩn y lời cầu xin của 2 sứ giả, sai 3 sứ thần, 20 người tùy tùng. Từ đó sứ giả đi cống 6 năm 1 lần. Chánh sứ 1 người, Phó sứ 2 người".

(19) Yamamoto Taro, Sđd, tr.690.

(20) Chánh tổ thực lục, quyển 6, mục Đinh Dậu, tháng 9 năm Mậu Tuất: "Cho mời Đại thần. Sai Tạ Ân sứ thần ra đi từ Thẩm Dương. Hoàng thượng ban tặng chữ vàng, thưởng cho những người đi theo, thể hiện sự trọng dụng đặc biệt. Cho Hà Ân quân Lí Quang làm Tạ Ân Chánh sứ, Kim Dực làm Phó sứ, Lí Đông úc làm Thư trạng quan. Cũng vào tháng ấy năm Tân Sửu: "phó sứ Lí Dực và Thư trạng quan Lí Đông úc đều cho rằng tình lí khó cưỡng, bèn lấy Y Phường, Trịnh Vũ Thuần thay vào đó".

(21) Ngô Đức Thọ chủ biên, Sđd, tr.731.

(22) Toàn thư, tục biên, quyển 5, mục ghi năm Cảnh Hưng 47 (1785): Tháng 5, mùa hạ, giặc Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai em Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa. Thống suất Phạm Ngô Cầu đem thành ra hàng, Phó tướng Hoàng Đình Thể, Đốc thị Nguyễn Trọng Đương đều bị chết".

(23) Yamamoto Taro , Sđd, chương 7: Quan hệ giữa nhà Thanh với nhà Lê hậu kì, mục 6: Sự can thiệp của nhà Thanh đối với chính quyền Nguyễn Huệ và bè đảng Tây Sơn, mục 7: Trao sắc phong cho chính quyền Tây Sơn. Trong Đại Thanh chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 30: "Mùa xuân Canh Tuất, Phúc Khang An dục Huệ [sang yết kiến vua nhà Thanh], Huệ cho Trị giả thay mình. "... Huệ bèn lấy bọn Phạm Công Trị đóng giả mình, cùng bề tôi của mình là Ngô Văn Sở, Đặng Văn Châm, Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Đỗ Văn Công Hài, [sang Thanh], ngoài đồ cống như thường lệ còn cống thêm 2 con voi đực, làm bọn đi đường một phen khổ sở".

(24) Chánh tổ thực lục, quyển 7, mục ghi tháng 4 năm Bính Tí: "Từ Hạo Du làm Tiến hạ kiêm Tạ Ân Phó sứ. Mục ghi tháng 5 năm Đinh Mùi: "Đinh Mùi mời gặp 3 Tạ Ân sứ thần. Mục ghi tháng 10 năm Kỉ Tị: "Kỉ Tị, triệu kiến sứ thần Hoàng Nhân Điểm và Từ Hạo Tu trở về nước".

(25) Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, quyển 30: "... Huệ cũng lấy vàng bạc ,gấm vóc để xin lấy công chúa Ngọc Thành, Huệ bèn đổi tên là Quang Bình, sai cháu là Nguyễn Quang Hiển cùng bọn bồi thần là Vũ Huy Tấn mang đồ cống đến cửa quan xin được vào chầu".

(26) Tình hình hỗn loạn của nước An Nam do Tây Sơn cướp chính quyền cũng được phía Triều Tiên biết đến qua báo cáo của Chánh sứ Lí Tại Hiệp, mục năm ất Sửu, tháng 3, năm thứ 13, quyển 27 Chánh tổ thực lục. Và có thể thấy trong các báo cáo của Thư trạng quan Thành Chủng Nhân, Thủ dịch Trương Liêm, điều năm Đinh Mùi, tháng 3 năm thứ 14, quyển 29, cũng sách trên.

(**) Trong quá trình dịch thuật, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ của GS. Trần Nghĩa, Cô giáo Rika – người Nhật và Cử nhân Nguyễn Đức Toàn. Xin chân thành cảm ơn (ND).