TB

THỬ SO SÁNH TRUYỀN KỲ MẠN LỤC VỚI TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI

TRẦN NGHĨA

Truyền kỳ mạn lục (TKML) của Nguyễn Dữ(1) là một tập truyện ngắn viết bằng chữ Hán khá nổi tiếng của văn học Việt Nam thế kỷ XVI, từng được "giải âm" ngay sau khi sách ra đời(2) và được nhiều lần phiên chuyển sang Tiếng Việt hiện đại trong những thập kỷ gần đây(3). Thế nhưng không ít nghi vấn đề TKML từ lâu vẫn chưa được giải quyết, chẳng hạn sách hoàn thành vào năm nào, bài tựa sách do ai biên soạn, giữa TKML của Nguyễn Dữ và Tiễn đăng tân thoại (TĐTT) của Cù Hựu(4) có liên hệ gì với nhau không v.v... Đối với hai vấn đề đầu, việc phát hiện bản Cựu biên TKML in năm 1712 có thể xem như là một sơ bộ giải đáp(5). Còn vấn đề thứ ba - phải chăng tác phẩm Nguyễn Dữ "không ra ngoài phên giậu của Tông Cát" như nhận xét của Hà Thiện Hán khi đề tựa TKML, điều mà giới nghiên cứu Nguyễn Dữ cho đến nay vẫn băn khoăn - thì may sao, chúng tôi vừa có được trong tay một cuốn TĐTT của Cù Hựu(6). Với nguồn tư liệu mới bổ sung này, vấn đề đặt ra là thử so sánh TKML với TĐTT để hiểu thêm về một tác phẩm Hán Nôm có giá trị của chúng ta, đồng thời cũng là để kiểm chứng nhận xét trên kia của Hà Thiện Hán. Sau đây, chúng ta đi vào những vấn đề cụ thể.

I. SO SÁNH TKML VỚI TĐTT VỀ CÁC MẶT CẤU TẠO, THỂ VĂN, PHẠM VI ĐỀ TÀI VÀ Ý ĐỒ NGƯỜI CẦM BÚT

Trước hết, hãy nói về mặt cấu tạo tập sách. TKML của Nguyễn Dữ như chúng ta biết, gồm cả thảy 20 truyện(7), được chia đều thành 4 quyển, mỗi quyển 5 truyện. TĐTT của Cù Hựu cũng vậy, gồm cả thảy 20 truyện, được chia đều thành 4 quyển(8), mỗi quyển 5 truyện. Có thể xem bảng đối chiếu A sau đây: (Xem biểu trang 5).

Qua bảng đối chiếu trên, ta thấy về mặt cấu tạo tập sách, TKML và TĐTT đại thể giống nhau. Chỗ khác nhau nổi bật giữa hai tác phẩm là ở TKMT, cuối mỗi truyện (trừ Kim Hoa thi thoại ký) đều có lời bình của tác giả, còn ở TĐTT thì không (trừ Thu Hương đình ký ở phần Phụ lục)(9).

Về thể văn, TKML cũng như TĐTT đều thuộc tiểu thuyết truyền kỳ, chủ yếu viết bằng văn ngôn, nhưng cũng dùng xen kẽ không ít các thể loại văn học khác như thể (cổ phong luật khẩu chiếm), ca (đoản xướng), ngâm, từ (trường đoản cú), thứ, phán, trạng, văn tế (điếu văn)... Riêng TKML còn có các loại đàn văn, tấu văn, sách văn.

Các mẩu chuyện trong hai tác phẩm khi thì gọi là "truyện" (TKML:2, 3, 13, 14, 17, 18; TĐTT: 14, 15, 17, 18, 20); khi thì gọi là "ký" (TKML: 1, 5, 7, 15, 19; TĐTT: 3, 4, 5, 8, 9, 10, 12, 13, 19); khi thì gọi là "lục" (TKML: 4, 6, 8, 9, 10, 11, 12, 16, 20; TĐTT: 1, 6, 7, 16). Riêng TĐTT còn một tên gọi nữa là "chí" (TĐTT: 2, 11).

Có thể thấy về mặt văn thể, TKML và TĐTT cơ bản giống nhau. Khác là ở chỗ TKML tra dùng loại "lục" (tất cả 9 truyện), trong khi TĐTT lại ưa dùng loại "ký" (tất cả 9 truyện). "Lục" thường dùng để chép về "ngôn hành, câu chuyện, sự vật". Còn "ký" thì thường dùng để chép về "sự vật"(10). Nhưng sự khác nhau giữa "lục" và "ký" trên thực tế là hết sức tương đối.

Về phạm vi đề tài TKML cũng như TĐTT đều chép những chuyện "có địa chỉ, có niên đại" cẩn thận (tất nhiên không loại trừ khả năng hư cấu), xảy ra ở một thời điểm cách tác giả không quá xa. Ở TKML là chuyện đời Lý, đời Trần, đời Hồ, đời Lê sơ; ở TĐTT là chuyện đời Tống, đời Nguyễn, đời Minh. Thế giới nhân vật trong TKML là người, vật, ma, quỷ... Thế giới nhân vật trong TĐTT cũng là người, vật, ma, qủy... Khác nhau là ở chỗ Nguyễn Dữ sử dụng đề tài Việt Nam (trừ Hạng Vương từ ký), còn Cù Hựu thì sử dụng đề tài Trung Quốc. Số phận nhân vật của họ cũng tùy sách từng người mà mang những nội dung riêng, sắc thái riêng...

Về ý đồ người cầm bút, với TĐTT, có thể nhìn qua bài tựa của tác giả: "Viết xong, tự cho là dính vào chuyện ly kỳ hơi nhiều nên đã đem cất vào hòm sách, không muốn đưa ra truyền bá. Bạn bè có người biết chuyện, đến nài nỉ cho xem ngày một đông, không làm sao từ chối hết được, đành tự giải thích rằng: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu đều là sách của thánh nhân, dùng làm gương cho muôn đời học tập, vậy mà Kinh dịch thì nói rồng đấu nhau ngoài nội, Kinh Thư thì chép chuyện trĩ gáy trong đĩnh. Quốc phong thì chọn cả thơ dâm bôn, Xuân thu thì ghi cả bọn loạn tặc, cho nên không thể chấp nhất mà được. Nay sách của tôi đối với thế giáo nhân luân có thể không mấy bổ ích, nhưng xét về mặt khuyến khích việc thiện, răn đe việc ác, thương người cùng khổ, xót kẻ mắc oan thì âu cũng là người nói vô tội, người nghe lấy đó sửa mình"(11).

Với TKML, ý đồ sáng tác của Nguyễn Dữ có thể tìm thấy qua những lời bình của tác giả cuối mỗi truyện. Thí dụ ở Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục, ông viết: "Than ôi! Sách Tề Hải ham ghi chuyện kỳ lạ, Trang Chu thích viết chuyện ngụ ngôn, thật không phải là những món mà người quân tử ưa chuộng. Nhưng ví thử có chuyện nào đó quan hệ tới luân thường, lời văn hàm ý khuyên giới thì chép lấy mà lưu truyền phỏng có hại gì. Nay trong truyện Tử Hư, việc dốc chí theo thầy đủ làm gương khích lệ, việc bạc bẽo với thầy đủ làm gương răn đe, vậy thì sự quan hệ tới nhân luân tưởng cũng lớn lắm chứ. Còn như chuyện dạo chơi Thiên Đình có hay không có hà tất phải biện luận nhiều ở đây"(12).

Cả Nguyễn Dữ lẫn Cù Hựu đều muốn mượn những chuyện ly kỳ ở đâu đó để gián tiếp phân tích, thảo luận, biểu dương cái thiện, phê phán cái ác trong chính xã hội mà họ đang sống. Tính chất hư hư thực thực của các câu chuyện chẳng qua là cái mộc giúp họ chống đỡ mọi đả kích có thể có mà trước hết là của giai cấp thống trị và lễ giáo phong kiến đối với họ.

Truyền kỳ mạn lục Tiễn đăng tân thoại
Quyển Truyện Tên Truyện Quyển Truyện Tên Truyện
(1) (2) (3) (4) (5) (6)
I 1 Hạng Vương từ ký (Truyện đền Hạng Vương) I 1 Thủy Cung khánh hội lục (Hội mừng ở Thủy Cung)
2 Khóai Châu nghĩa phụ truyện (Truyện người vợ có nghĩa ở Khóai Châu) 2 Tam Sơn phúc địa chí (Cõi phúc ở núi Tam Thần)
3 Mộc miên thụ truyện (Truyện cây gạo) 3 Hoa Đinh phùng cố nhân ký (ở Hoa Đình gặp bạn cũ)
4 Trà Đồng giáng đản lục (Truyện người Trà Đồng giáng sinh) 4 Kim phượng thoa ký (Truyện chiếc thoa kim phượng)
5 Tây viên kỳ ngộ ký (Truyện kỳ ngộ ở bức tường tây) 5 Liên phương lầu ký (Truyện lầu Liên phương)
II 6 Long Đình đối tụng lục (Truyện đối chất ở Long Cung) II 6 Lệnh Hồ Sinh minh mộng lục (Truyện Lệnh Hồ Sinh xuống âm Phủ)
7 Đào Thị nghiệp oan ký (Truyện nghiệp oan của nàng Đào Thị) 7 Thiên Thai phỏng ẩn lục (Truyện tới thăm nhà ẩn dật ở núi Thiên Thai)
8 Tản Viên từ Phán sự lục (Truyện chức Phán sự đền Tản Viên) 8 Đằng Mục túy du Tụ Cảnh Viên ký (Truyện Đằng Mục nhân lúc rượu say dạo chơi Tụ Cảnh Viên)
9 Từ Thị tiên hôn lục (Truyện Từ Thức lấy vợ tiên) 9 Mẫu đơn đăng ký (Truyện chiếc đèn mẫu đơn)
10 Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục (Truyện Phạm Tử Hư dạo chơi Thiên Đình) 10 Vị Đường kỳ ngộ ký (Truyện kỳ ngộ ở Vị Đường)
III 11 Xương Giang yêu quái lục (Truyện yêu quái ở Xương Giang) III 11 Phú quý phát tích tư chí (Ngôi đền cai quản việc phất giàu sang)
12 Na Sơn tiều đối lục (Lời đối đáp của người tiều phu núi Nưa) 12 Vĩnh Châu dã miếu ký (Truyện ngôi dã miếu ở Vĩnh Châu)
13 Đông Triều phế tự truyện (Truyện ngôi chùa hoang ở Đông Triều) 13 Thân Dương động ký (Truyện động Thân Dương)
14 Thúy Tiêu truyện (Truyện nàng Thúy Tiêu) 14 Ái Khanh truyện (Truyện nàng Ái Khanh)
15 Đà Giang dạ ẩm ký (Truyện tiệc rượu đêm ở Sông Đà) 15 Thúy Thúy truyện (Truyện nàng Thúy Thúy)
IV 16 Nam Xương nữ tử lục (Truyện người con gái Nam Xương) IV 16 Long Đường linh hội lục (Cuộc hội ngộ linh diệu ở miếu Long Vương)
17 Lý tướng quân truyện (Truyện vị Tướng họ Lý) 17 Thái Hư Tư pháp truyện (Truyện chức Tư pháp ở điện Thái Hư)
18 Lệ Nương truyện (Truyện nàng Lệ Nương) 18 Tu văn Xá nhân truyện (Truyện một văn sĩ sau khi chết làm chức Xá nhân)
19 Kim Hoa thi thoại ký (Nói truyện thơ ở Kim Hoa) 19 Giám Hồ dạ phiếm ký (Đêm thả thuyền chơi ở Giám Hồ)
20 Dạ Soa Bộ soái lục (Truyện viên tướng của qủy Dạ Soa) 20 Lục y nhân truyện (Truyện cô gái áo xanh)

II. SO SÁNH TKML VỚI TĐTT TRÊN TỪNG TRUYỆN RIÊNG LẺ

Xét về các phương diện tổng quát - cấu tạo thể văn, phạm vi đề tài, ý đồ người cầm bút - ta thấy giữa TKML và TĐTT có những liên hệ nhất định và điều này cũng được thể hiện trên kết cấu một số truyện riêng lẻ của chúng. Có ít nhất 9 truyện trong TKML liên quan tới 8 truyện trong TĐTT về mặt cốt truyện. Ở TKML, đó là Hạng Vương từ ký (QI/1) Mộc miên thụ truyện (QI/3), Tây viên kỳ ngộ ký (QI/5), Long Đình đối tụng lục (QII/1), Đào Thị nghiệp oan ký (QII/2), Tản Viên từ Phán sự lục (QII/3), Na Sơn tiều đối lục (QIII/2), Thúy Tiêu truyện (QIII/4) và Dạ Soa Bộ soái lục (QIV/5). Ở TĐTT, đó là Liên phương lâu ký (QI/5), Lệnh Hồ Sinh minh mộng lục (QII/1), Thiên Thai phỏng ẩn lục (QII/2), Mẫu đơn đăng ký (QII/1), Ái Khanh truyện (QIII/4), Thúy Thúy truyện (QIII/5), Thái Hư Tư pháp truyện (QIV/2) và Tu văn Xá nhân truyện (QIV/3). Căn cứ vào mức độ liên quan nhiều hoặc ít, có thể xếp chúng thành 4 nhóm khác nhau.

Nhóm thứ nhất gồm những tác phẩm có cốt truyện na ná như nhau. Đó là các trường hợp:

1. Mộc miên thụ truyện (TKML) - Mẫu đơn đăng ký (TĐTT).

2. Đào Thị nghiệp oan ký (TKML) - Ái Khanh truyện (TĐTT).

3. Tản Viên từ Phán sự lục (TKML) - Thái Hư Tư pháp truyện (TĐTT).

4. Na Sơn tiều đối lục (TKML) - Thiên Thai phỏng ẩn lục (TĐTT).

5. Thúy Tiêu truyện (TKML) - Thúy Thúy truyện (TĐTT).

Hãy lấy cặp Mộc miên thụ truyện - Mẫu đơn đăng ký là thí dụ. Xem bảng so sánh B sau đây:

B. Bảng so sánh "Mộc miên thụ truyện" với "Mẫu đơn đăng ký" (Trên một số chi tiết lớn)

Mộc miên thụ truyện (TKML, QI/3) Mẫu đơn đăng ký (TĐTT, QII/4)
* Trinh Trung Ngộ nhà cực giàu, tới lui buôn bán vùng chợ Nam Xang, thường gặp một thiếu nữ xinh xắn từ thôn Đông đi ra, theo sau là một cô hầu nhỏ. * Kiều Sinh vừa góa vợ, đêm Nguyên tiêu đứng tựa cửa nhìn ra, thấy một cô hầu quảy chiếc đèn mẫu đơn đi trước, theo sau là một mỹ nữ tuổi trạc 17, 18.
* Trung Ngộ liếc nhìn, thấy thiếu nữ đẹp tuyệt trần, nhưng vì ở trọ nơi đất khách, không tiện hỏi thăm, đành thầm yêu trộm nhớ mà thôi. * Kiều Sinh thấy mỹ nữ là trang quốc sắc, bỗng hồn xiêu phách lạc, không dằn lòng được, bèn lẽo đẽo bước theo nàng, lúc thì ở phía trước, lúc thì ở phía sau.
* Sau khi chàng tìm cách làm quen được với nàng đưa nàng về thuyền mình. * Chàng tìm cách làm quen được với nàng, đưa nàng về nhà mình.
* Trung Ngộ hỏi thăm tên họ, cửa nhà. Nàng nói mình họ Diệp, tên Khanh, là cháu gái của Hối Ông, một dòng họ to trong làng. * Kiều Sinh hỏi thăm tên họ, của nhà. Nàng nói mình họ Phù, tên Lệ Nương, là con gái của cố Phán sự châu Phụng Hóa.
* Sau đêm hạnh phúc, họ chia tay nhau. Từ đó ngày nào cũng vậy, Diệp Khanh sáng đi tối đến, kéo dài trong hơn một tháng. * Sau đêm tận hưởng hạnh phúc, họ chia tay nhau. Từ đó ngày nào cũng vậy, Lệ Nương sáng đi tối đến, kéo dài hơn nửa tháng.
* Có người bạn thấy vậy sinh nghi, khuyên Trung Ngộ nên xem xét cẩn thận tung tích Diệp Khanh. * Có ông cụ nhà bên thấy vậy sinh nghi, khuyên Kiều Sinh đến chỗ ở của Lệ Nương dò xét.
* Diệp Khanh đưa Trung Ngộ đến nơi ở của mình, đó là một ngôi nhà mồ, trong đặt cỗ quan tài trên phủ tấm lụa đỏ với dòng chữ màu bạc "Linh cữu của Diệp Khanh". Cạnh đó là tượng một cô hầu ôm chiếc đàn hồ cầm. * Kiều Sinh đi tìm nơi cư trú của Lệ Nương, phát hiện một chiếc quan tài trên có đề dòng chữ "Linh cữu của Lệ Nương, con gái của cố Phán sự châu Phụng Hóa". Trước quan tài có treo một chiếc đèn mẫu đơn, dưới đèn là hình nộm cô hầu.
* Trung Ngộ kinh rợn quay đầu định chạy thì Diệp Khanh đã chặn ngay lối ra nói: Anh đã tới đây, đâu có chuyện để anh về. Huống chi hôm trước trong câu thơ còn lấy cái chết để hẹn nhau, mong được sớm cùng nhau chung một huyệt. Vậy mà nay lại nhìn nhau với con mắt nghi ngờ, chẳng lẽ bỏ nhau dễ dàng đến thế! Bèn xông đến túm lấy áo, may mà vạt áo phía sau của chàng đứt toạc ra nên Trung Ngộ thóat được. Nhưng chỉ ít lâu sau, chàng lại ra chỗ Diệp Khanh ôm áo quan mà chết. * Kiều Sinh sợ quá, chạy về kể hết những điều trông thấy với ông cụ nhà bên. Ông cụ bảo đi tìm ngay Đạo sĩ đến trấn yểm, từ đó Lệ Nương không tới nữa. Một hôm vì say rượu, Kiều Sinh đã quên lời Đạo sĩ dặn, đi thẳng một mạch đến chỗ quàn Lệ Nương. Vừa thấy Kiều Sinh, nàng nói: May mà nay còn được gặp chàng, đâu có chuyện thả chàng đi. Bèn lôi Kiều Sinh đến trước quan tài, nắp áo quan tự nhiên mở ra, Lệ Nương đẩy chàng vào bên trong, nắp áo quan khép ngay lại.
* Từ đó về sau, những đêm tối trời, thấy Trung Ngộ và Diệp Khanh dắt tay nhau cùng đi, lúc hát lúc cười, đòi dân làng phải cúng kiến, hơi phật ý một chút là tai họa giáng xuống ngay, người địa phương chịu không nổi, lén quật mộ hai người lên đem hài cốt vất xuống sông. * Từ đó về sau, vào những ngày âm u, những đêm trăng tối, thường thấy Kiều Sinh và Lệ Nương dắt tay nhau cùng đi, một cô hầu quảy chiếc đèn mẫu đơn đi trước, ai không may mà gặp, về nhà phát ốm ngay, phải van vái, cầu xin bệnh mới thuyên giảm, không thì nằm liệt giường liệt chiếu
* Hai người lại lên cây gạo bên chùa ven sông mà ở, tiếp tục quấy rối người ta. Dân làng phải vời một Đạo sĩ đến trấn yểm. Đạo sĩ sai sáu bảy trăm âm binh bắt giải hai người đi. * Sau phải nhờ một Đạo sĩ cao tay đến trừ yểm. Đạo sĩ sai âm binh lôi cả Kiều Sinh, Lệ Nương và người hầu về đánh một trận, máu me đầm đìa, bắt cung khai tội trạng, đoạn giải họ đi...

Nhóm thứ hai gồm những truyện có kết cấu giống nhau một phần, như các trường hợp:

1. Tây viên kỳ ngộ ký (TKML) - Liên phương lâu ký (TĐTT)

2. Tản Viên từ Phán sự lục (TKML) - Lệnh Hồ Sinh minh mộng lục (TĐTT).

3. Dạ Soa Bộ soái lục (TKML) - Thái Hư Tư pháp truyện (TĐTT).

Lấy cặp Tây viên kỳ ngộ ký - Liên phương lâu ký (giống nhau chủ yếu ở phần đầu) làm thí dụ. Xem bảng so sánh C sau đây:

C. Bảng so sánh "Tây viên kỳ ngộ ký" với "Liên phương lâu ký" (trên một số chi tiết chính).

Tây viên kỳ ngộ ký (TKML, QI/5) Liên phương lâu ký (TĐTT, QI/5)
* Hà Nhân người Thiên Trường, khoảng năm Thiệu Bình ra Thăng Long theo học Nguyễn Trãi. Những hôm đi nghe sách, khi qua phường Khúc Giang, nơi nhà cũ Thái sư họ Trần, chàng thường gặp 2 thiếu nữ ngồi trên chỗ tường sụt lở cười nói tinh nghịch, hái hoa quả ném vào người chàng. Nhiều lần như thế, chàng cầm lòng không được bèn tỏ tình với hai nàng. Họ tự giới thiệu với chàng một người tên Liễu Nhu Nương, một người tên Đào Hồng Nương. * Ở Ngô Quận có người họ Tiết, nhà giàu, đầu năm Chí Chính đến Xương Môn mở cửa hàng buôn thóc. Gia đình có hai cô con gái, cô lớn tên là Lan Anh, cô nhỏ tên là Huệ Anh, thông minh kiều diễm, thơ phú trội nhất vùng. Họ Tiết dựng cho 2 nàng một ngôi lầu ngay phía sau nhà, sát bờ sông, gọi là lầu Liên phương. Lại có Trịnh Sinh người Côn Sơn cũng con nhà danh giá, cha chàng dựa vào chỗ quen thân với họ Tiết, đã gửi chàng đến Ngô Quận, nhờ họ Tiết kèm cặp cho buôn bán. Chàng thường đỗ thyền cạnh lầu Liên phương. Một đêm trăng hè, Trịnh Sinh tắm ở đầu thuyền, Lan Anh và Huệ Anh qua khe cửa sổ nhòm thấy, cầm đôi vải thiều ném xuống chỗ chàng. Chàng tuy hiểu ý, nhưng không có cách nào lên cùng họ được.
* Sau khi nghe kể lai lịch đáng thương của Đào và Liễu, Hà Nhân đưa họ về nơi cư ngụ của mình. Đêm hôm ấy, họ cùng nhau chăn gối. * Trời mỗi lúc một khuya, Trịnh Sinh đứng tựa mạn thuyền như có ý chờ đợi. Bỗng có tiếng cửa sổ mở, chàng trông lên, thấy 2 nàng từ trên lầu cao thòng dây đu xuống chỗ chàng Trịnh Sinh nhanh chóng theo dây đu mà lên. Đến được với nhau, họ mừng đến nghẹn ngào, bèn dắt nhau đi nằm.
* Trong cuộc hoan lạc, họ ngâm thơ tặng đáp lẫn nhau. Từ đấy 2 nàng sáng đi tối đến, thành ra thường lệ. * Trong thú vui hạnh phúc, họ làm nhiều thơ để trao đổi tình cảm với nhau. Từ đấy không đêm nào là họ không tụ họp ở lầu Liên phương.
* Bỗng một khó khăn xảy đến đe dọa cuộc yêu đương của họ. Hà Nhân được thư nhà gọi về lấy vợ(13). * Bỗng một chuyện bất ngờ xảy tới đe dọa cuộc yêu đương của họ. Trịnh Sinh được thư nhà hối thúc về quê(13)

Nhóm thứ ba, một cốt truyện ở TKML liên quan tới hai hoặc nhiều cốt truyện ở TĐTT. Đấy là trường hợp Tản Viên từ Phán sự lục - Thái Hư Tư pháp truyện - Tu văn Xá nhân truyện. Xem bảng so sánh D sau đây:

D. Bảng so sánh "Tản Viên từ Phán sự lục" - "Thái Hư Tư pháp truyện" và "Tu văn Xá nhân truyện" (trên một số chi tiết chính)

Tản Viên từ Phán sự lục (TKML, QII/3) Thái Hư Tư pháp truyện (TĐTT, QIV/2)
* Ngô Tử Văn người Yên Dũng, tính khẳng khái, ngay thẳng, ai cũng bảo chàng là kẻ cứng cỏi. Ở địa phương có ngôi miếu thờ viên Bộ tướng của Mộc Thạnh bấy lâu vẫn tác yêu tác quái, vòi vĩnh cúng tế, gây khổ cho dân, chàng bèn cho một mồi lửa thiêu trụi ngôi miếu, ai nom thấy cũng lè lưỡi. * Phùng Kỳ là một anh học trò ngông ở đất Sở, thường cậy tài ngạo vật, không tin quỷ thần, hễ nghe đâu có yêu quái làm người ta sợ là chàng đến tận nơi văng tục, đôi khi còn đốt cả đền thờ, quăng tượng xuống sông, thẳng tay trừng trị không chút kiêng dè, ai cũng bảo chàng là người gan dạ.
* Viên Bộ tướng liền bắt chàng ốm và dọa dẫm: "Anh theo nghiệp Nho, đọc kinh truyện thánh hiền, há lại không biết tính của quỷ thần hay sao mà dám khinh nhờn xúc phạm? Làm lại miếu ngay cho ta, bằng không ta sẽ kiện tới Phong Đô!" * Một hôm, do sơ ý, chàng rơi vào tay lũ quỷ. Bọn chúng giải chàng đến nộp cho Quỷ Vương. Quỷ Vương nổi giận nói: "Mày là thằng có đủ chi thể, đủ tri thức, há lại không biết tính của quỷ thần vốn rất thiêng hay sao? Đến như Thánh Khổng Tử mà còn nói "kính nhi viễn chi" nữa là! Đó cũng là cái mà Kinh dịch gọi là "chở Quỷ hàng xe". Tiểu nhã gọi là "làm quỷ làm vực". Quỷ Vương nói xong, sai lũ quỷ lôi chàng ra hành hình.
Tu văn Xá nhân truyện (TĐTT, Q.IV/3)
* Ngô Tư Văn chết xuống Âm phủ một ngày để hầu kiện rồi sống trở lại. Một tháng sau có một cụ già đến bảo rằng "Miếu của lão được giao trả lại cho lão là nhờ sự giúp đỡ của anh, lão không biết lấy chi hậu tạ. Nay thấy ở đền thờ Tản Viên đang khuyết chức Phán sự, lão sẽ cố sức tiến cử anh làm, xem như sự đền ơn của lão. Người ta ở đời xưa nay ai mà không chết, chỉ mong để tiếng thơm lại cho đời là đủ rồi. Chậm nửa tháng nữa, e chức ấy sẽ về tay người khác. Mong anh cố gắng mà làm, đừng cho đây là chuyện vẽ". Tử Văn vui vẻ nhận lời, liền bố trí việc nhà, không đau ốm gì mà chết. * Hạ Nhan chết ở Bắc Cố Sơn. Ba năm sau có người bạn đang ốm, Hạ Nhan tới thăm, nhân bảo rằng: "Tớ làm ở phủ Tu văn, đến nay mãn chức, đang chờ cử người thay. Nơi Âm phủ chức này trọng vọng lắm, được thật là khó. Cậu nếu không thích thì chẳng dám ép, muôn một mà thích, tớ sẽ cố chạy cho. Vội vội vàng vàng như thế này cũng chỉ muốn đền ơn xưa của cậu. Người ta ở đời ai mà không chết. Sống thêm vài năm nữa thì làm sao mà nắm chức ấy được!". Người bạn nghe nói thế vui vẻ nhận lời, liền sắp xếp công việc gia đình, không thuốc thang gì nữa, được mấy hôm thì chết.

Nhóm thứ tư, hai hoặc nhiều cốt truyện ở TKML cùng liên quan tới một cốt truyện ở TĐTT. Đó là trường hợp Hạng Vương từ ký - Tản Viên từ Phán sự lục - Long Đình đối tụng lục - Lệnh Hồ Sinh minh mộng lục. Xem bảng so sánh E sau đây:

E. Bảng so sánh "Hạng Vương từ ký" - "Tản Viên từ Phán sự lục" - "Long Đình đối tụng lục" - "Lệnh Hồ Sinh minh mộng lục" (trên một số chi tiết chính).

Hạng Vương từ ký (TKML, QI/1) Lệnh Hồ Sinh minh mộng lục (TĐTT, QII/1)
* Quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc có tài làm thơ, nhất là thơ châm biếm. Cuối đời nhà Trần, ông đi sứ phương Bắc, lúc ngang qua đền Hạng Võ có đề một bài thơ. Tối hôm đó về tới nhà khách, đang lúc rượu ngà ngà say muốn ngủ thì có người đến trước mặt thưa rằng: Vâng mệnh Hạng Vương mời ngài đi tiếp chuyện. * Lệnh Hồ Sinh là người học trò thẳng tính, không tin quỷ thần. Nghe có một người chết nhờ đôt nhiều giấy vàng mã để đút lót cho Âm ty mà được sống lại, chàng bèn làm một bài thơ chế riễu. Thơ làm xong, ngâm đi ngâm lại mấy lần. Đêm hôm ấy đang ngồi một mình trước đèn bỗng có 2 quỷ sứ xông tới, đứa nắm áo, đứa kéo thắt lưng lôi chàng xuống Âm phủ để chất vấn.
Tản Viên từ Phán sự lục (TKML, QIII/3)
* Đến nửa đêm, bệnh tình Tử Văn trở nên nguy kịch, có 2 qủy tốt đến dẫn chàng ra vùng ngoại ô phía Đông. Đi được hồi lâu, tới một cung phủ có thành bằng sắt cao ngất. Chàng được lệnh đi theo hướng Bắc, gặp một con sông lớn, trên sông có một chiếc cầu dài. Gió tanh thốc vào mũi, sóng cuộn đen ngòm, hơi lạnh thấu xương. Hai bên cầu có mấy vạn quỷ Dạ Soa mắt xanh tóc đỏ, hình thù quái ác... * Hồ Sinh ở Địa Ngục, ra khỏi cửa phủ đi về phía Bắc được hơn một dặm, thấy thành bằng sắt cao ngất, bầu trời mù đen, lính canh gác đông nghịt, toàn đầu trâu mặt ngựa, mình xanh tóc nâu, mỗi tên cầm một thứ như chiếc dáo, đứa ngồi đứa đứng rải rác hai bên cửa...
Long Đình đối tụng lục (TKML, QII/1)
* Sau khi Long Vương tuyên án thần Thuồng luồng lùi lũi chuồn thẳng. Tả hữu cũng đưa mắt ra hiệu cho họ Trịnh lui ra. Long Vương nhân đó mở tiệc khoản đãi, tặng văn tê, đồi mồi. Vợ chồng họ Trịnh bái tạ trở về cõi thế trước sự mừng rỡ của bà con chòm xóm. Chàng trắng án. * Hồ Sinh xem xong cảnh Địa Ngục, 2 sứ giả đưa chàng về cõi thế. Vậy là đã trắng án. Chàng vươn vai ngáp dài, h ra là một giấc mộng.

Ngoài 4 nhóm vừa nêu, các truyện còn lại ở TKML và TĐTT cơ hồ không liên quan gì với nhau lắm, trừ một số đặc điểm chung đã nêu ở phần I.

Có thể vẽ các sơ đồ như sau để tóm tắt kết quả so sánh trên từng truyện riêng lẻ, lấy TKML làm đơn vị tính.

III. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH

Từ thực tế trên đây, trước hết không thể nói TKML chẳng liên quan gì tới TĐTT. Trái lại, chính tác phẩm của Cù Hựu, như ta đã thấy, là một gợi ý quan trọng về cách chọn đề tài và một kiểu mẫu hấp dẫn về cách vận dụng thể loại giúp Nguyễn Dữ làm nên kiệt tác của mình. Ở đây Hà Thiện Hán có lý khi xếp TKML vào cùng khu vực sáng tác (phương pháp) với TĐTT.

Nhưng như vậy hoàn toàn không có nghĩa tác phẩm này là cái bóng của tác phẩm kia. Mà mỗi tác giả, đặc biệt là Nguyễn Dữ trong khi tham khảo người đi trước, vẫn dành cho mình một khoảng đất riêng để hoạt động. Trên một nửa số truyện trong TKML khống mấy liên quan đến TĐTT đã nói lên điều đó. Ngay như số truyện gọi là có "dính líu" với TĐTT trên những chừng mực khác nhau, thì sự "dính líu" ấy phần nhiều cũng chỉ hạn chế ở bộ khung, còn da thịt, mặt mũi, thần thái... thì vẫn là của Việt Nam, của xã hội Lý - Trần - Hồ - Lê sơ, hay nói cho thật chân xác, của cái hiện thực nóng bỏng mà Nguyễn Dữ đang hàng ngày xúc tiếp. Thậm chí ở những phương diện ít mang tính chất tư riêng nhất - khái niệm từ ngữ, ngay cả trong các trường hợp tác giả TKML có ý thức mượn lại hẳn hoi ở TĐTT - ta vẫn thấy chúng được sử dụng "theo kiểu Nguyễn Dữ"(14).

Ở Trung Quốc, TĐTT đã để lại nhiều ảnh hưởng sâu đậm trên lĩnh vực tiểu thuyết truyền kỳ. Tiếp sau TĐTT, đã xuất hiện không ít những cố gắng bước theo Cù Hựu, trong đó đáng kể nhất có Lý Xương Kỳ người đời Minh với tác phẩm đăng dư thoại quyển, mỗi quyển 5 truyện (chưa kể 1 truyện phụ lục)(15). Thiệu Cảnh Chiêm cũng người đời Minh với tác phẩm đăng nhân thoại 2 quyển, quyển thứ nhất 5 truyện, quyển thứ hai 3 truyện(16). TĐTT cũng đã truyền sang bán đảo Triều Tiên, được người nước này in lại nguyên xi(17) hoặc tiến hành chú giải(18). Ở Việt Nam chắc chắn cũng đã có TĐTT của Cù Hựu để Nguyễn Dữ tham khảo và sau khi TKML của Nguyễn Dữ ra đời, cũng đã gây ấn tượng mạnh và thúc đẩy cho thể loại tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam phát triển, với ền kỳ tân phả, Lan trì kiến văn lục thể thấy hiện tượng TKML đáng được mở rộng nghiên cứu trên phạm vi các nước trong vùng, điều mà bài viết này, do phạm vi đề tài quy định, không có điều kiện đi sâu.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Dữ: theo bài tựa TKML, Nguyễn Dữ người Gia Phúc, đất Đồng Châu (tức huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương sau đó, nay thuộc Hải Hưng), không rõ sinh và mất năm nào. Cha ông là Nguyễn Tường Phiêu, đỗ Tiến sĩ năm Hồng Đức hai bảy (1496), làm quan đến chức Thượng thư. Nguyễn Dữ từ bé chăm học, lớn lên "đọc rộng, nhớ dai". Ông trúng Hương tiến (Cử nhân), đỗ thi Hội, được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền. Nhậm chức mới được một năm, ông xin thôi quan về nhà nuôi mẹ. TKML là tác phẩm còn lại duy nhất của ông.

(2) Xem Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện NCHN), ký hiệu VHv.1491. Người đầu tiên dịch TKML ra chữ Nôm là Nguyễn Thế Nghi, sống cùng thời với Nguyễn Dữ (Theo Công dư tiệp ký, phần Hậu biên, mục Danh nho danh thần, sách Viện NCHN, A.44, tờ 34b và 35ab).

(3) Xem TKML, bản dịch (Bd), Nxb. Tân dân, Hà Nội, 1933; TKML, Bd, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1957; Tân biên TKML, Trung tâm học hiệu xuất bản, Sài Gòn, 1962 - 1963, tái bản 1970; TKML, Bd, Nxb, Văn học, Hà Nội, 1971.

(4) Cù Hựu: tên chữ là Tông Cát, biệt hiệu là Tồn Trai, người Tiền Đường (Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Có tài liệu nói ông người Sơn Dương), sinh năm 1341 (niên hiệu Chí Chính đời Nguyên); mất năm 1427 (niên hiệu Tuyên Đức đời Minh). Ông có tiếng hay thơ từ hồi còn ít tuổi, đứng vào hàng trí thức tài ba nhưng suốt đời vẫn long đong lận đận, chỉ làm vài chức học quan nhỏ. Đến khoảng năm Vĩnh Lạc (1403 -14 ?), ông vì làm thơ mà mang vạ, bị đày đi Bảo An 10 năm mới được thả về. Tác phẩm có Tồn Trai thi tập, Nhạc phủ di âm, Quy điên thi thoại, Tiễn đăng tân thoại v.v... trong đó TĐTT để lại nhiều ảnh hưởng nhất.

(5) Xem bài Một bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712 vừa tìm thấy của Trần Nghĩa, Nghiên cứu Hán Nôm số 2 - 1985. Bài viết cho thấy TKML của Nguyễn Dữ được hoàn thành trước năm "Vĩnh Định sơ niên" tức 1547. Người đề tựa TKML là Hà Thiện Hán. Những trích dẫn về TKML ở bài viết "Thử so sánh TKML với TĐTT" này đều là theo bản TKML in năm 1712.

(6) Xem Tiễn đăng tân thoại, bản hiệu chú của Chu Lang Già, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã xuất bản, 1981.

(7) Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Văn tịch chí có nói TKML của Nguyễn Dữ gồm 21 truyện (xem LTHCLC, sách Viện NCHN, A.1551/7). Nhưng trên thực tế, các bản TKML đến được với chúng ta hôm nay, trong đó có bản in năm Cảnh Hưng 24 (1763), bản in năm Cảnh Hưng 25 (1764), kể cả bản in năm Vĩnh Thịnh tám (1712) vừa phát hiện đều cho thấy TKML chỉ có 20 truyện. Nếu quả thật tồn tại một bản TKML nào đó gồm 21 truyện như Phan Huy Chú nói, thì truyện thứ hai mốt rất có thể là một Phụ lục.

(8) Trong bài tựa viết cho TĐTT, Cù Hựu cho biết ông từng ghi chép những chuyện ly kỳ xưa nay để làm tập Tiễn đăng lục gồm 40 quyển. Nhưng trong cuốn TĐTT do Chu Lăng Già hiệu chú chỉ thấy có 4 quyển, mỗi quyển 5 truyện, và một Phụ lục gồm 2 truyện, trong đó truyện thứ nhất vốn đã có từ trước, do Cù Hựu "phụ thêm vào" như lời tác giả ghi ở cuối truyện; còn truyện thứ hai thì do người hiệu chú mới sưu tầm và đưa thêm vào TĐTT, nhưng vẫn cảm thấy văn phong (bút hiệu) "có chỗ không giống với văn phong Cù Hựu" (Xem TĐTT, Sđd, tr.4 và tr.7). Có thể Tiễn đăng lục gồm 40 quyển nói trên kia thực chất chỉ là một tập bút ký, hay cùng lắm là một thứ phác thảo để theo đó Cù Hựu chọn lọc và viết lại thành TĐTT gồm 4 quyển 20 truyện như ta hiện thấy.

(9) Cuối truyện Thu Hương đình ký (chép về đình Thu Hương) có lời chua của tác giả như sau: "Bạn của chàng (chỉ nhân vật chính trong truyện - TN) là Cù Hựu ở Sơn Dương biết rõ chuyện này, đã tìm đủ lời lẽ để khuyên lơn, chàng bèn sáng tác khúc hát Mãn đình phương để kỷ niệm các việc vừa xảy ra (...) Tôi (Cù Hựu - TN) chép đầu đuôi câu chuyện phụ vào bên sau tập truyện ly kỳ cổ kim, khiến người đa tình xem tới thì "Chương Đài bẻ liễu", mối hận giai nhân sẽ vô cùng; kẻ trượng nghĩa khi nghe kể thì "Mao Sơn thuốc thành", tâm hồn hiệp sĩ vẫn còn đó. Vậy chắc chi chung cục của câu chuyện chỉ có thế này thôi!" (Xem TĐTT, Sđd, tr.110-111). Có thể thấy cách ghi của Cù Hựu mang tính chất "lời dẫn", khác với cách ghi ở cuối mỗi truyện của Nguyễn Dữ mang tính chất "lời bình".

(10) Xem Giản minh Trung Quốc cổ điển văn học từ điển, Giang Tây, Nhân dân xuất bản xã xuất bản, Nam Xương, 1983, các trang 295, 296.

(11) TĐTT, Sđd, tr.3.

(12) TKML, Sđd.

(13) Đoạn cuối, mỗi truyện giải quyết theo một hướng khác nhau. Ở TKML, Hà Nhân về nhà xin bố mẹ cho hoãn cuộc hôn nhân, lấy cớ là để khỏi ảnh hưởng tới học tập, được bố mẹ đồng ý. Nhưng khi trở lại Thăng Long chàng lại tiếp tục gian díu với Liễu và Đào như trước. Rồi vào một ngày đông, 2 nàng đến báo cho chàng hay là họ đang bị cảm nặng sợ không qua khỏi. Quả nhiên đêm hôm ấy - một đêm mưa to gió lớn - 2 nàng không còn đến với chàng nữa. Cuối cùng Hà Nhân mới biết họ chỉ là tinh của cây đào và cây liễu tại vườn cũ của Thái sư họ Trần mới vừa bị mưa to gió quật ngã đêm qua. Toàn bộ câu chuyện ở đây được cấu tạo theo tuyển "Hợp - Trắc trở - Tan". Ở TĐTT trái lại nhờ mưu trí của Lan Anh và Huệ Anh cả 2 nàng cùng chàng nhanh chóng tranh thủ được sự đồng tình của đôi bên cha mẹ, cuối cùng họ chính thức lấy nhau. Toàn bộ câu chuyện ở đây được cấu tạo theo tuyến "Hợp - Trắc trở - Tái hợp".

(14) Thí dụ câu "Nhân sinh hội đương hữu tử, túng phụng cưỡng điên sổ niên; hà khả đắc cư thử địa giã" trong TĐTT (Tu văn Xá nhân truyện), TKML (Tản Viên từ Phán sự lục) đã mượn lại, nhưng đổi ra là "Nhân sinh tự cổ thuỳ vô hữu tử, đản hữu thanh ư hậu thế túc hĩ". Hay câu "Kiến Dật chí, kinh vấn viết (...). Yên đắc nhi thiệp ngô cảnh" ở TĐTT (Thiên Thai phỏng ẩn lục), sang TKML (Na Sơn tiểu đối lục) trở thành "Kiến Trương chí kinh viết (...) Tử Tử hề vi viễn thiệp ngô cảnh" v.v...

(15), (16) Xem Tiễn đăng tân thoại, Sđd, các tr.2, 3, 116, 305.

(17) Xem Tiễn đăng tân thoại, Minh Cù Hựu, Triều Tiên san, 2q, 2 sách (Đông Dương văn khố Triều Tiên bản phân loại mục lục, phần Tử bộ, Tokyo, 1939, tr.50).

(18) Xem Tiễn đăng tân thoại cú giải, Minh Cù Hựu soạn, Trương Châu đính, Thùy Hồ Tử tập thích, Triều Tiên san, 2q, 1 sách (Đông Dương văn khố Triều Tiên bản phân loại mục lục, phần Tử bộ, Tokyo, 1939, tr.50).

TB

VĂN BẢN CHUÔNG THANH MAI
THẾ KỶ XVIII

ĐINH KHẮC THUÂN

Chuông Thanh Mai được phát hiện vào đầu tháng tư năm 1986 trong trường hợp nhân dân đào đất làm gạch ở bãi Rồng (ven sông Đáy) thuộc xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Sơn Bình(1). Trong bài này chúng tôi miêu tả và phân tích đôi nét về văn bản khắc trên chuông; đồng thời dịch nghĩa và công bố toàn bộ văn bản nhằm cung cấp thêm tư liệu để các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu thêm nhiều mặt về một giai đoạn lịch sử mà tới nay tài liệu còn quá ít ỏi.

Văn bản được khắc toàn bộ trên chuông. Thân chuông cao 0,42m, được chia làm 4 khoang lớn, tạo bởi những đường gờ nổi. Mỗi khoang lại được chia làm hai ô. Ô trên là hình thang cân, có kích thước: 0,22m (0,18m)x 0,24m, ô dưới là hình chữ nhật, có kích thước 0,23x0,14m. Văn bản gồm hai phần: Phần chính được khắc ở 4 ô trên, nối tiếp theo chiều kim đồng hồ. Phần còn lại cũng được chia đều ở 4 ô dưới. Toàn bộ văn bản gồm 1530 chữ. Chữ còn khá rõ, chỉ bị mờ khoảng 30 chữ(2).

a. Vấn đề niên đại của văn bản.

Phần lạc khoản trong văn bản cho biết chuông Thanh Mai được đúc vào năm Mậu Dần niên hiệu Trinh Nguyên 14 (798).

Về phong cách và hình dáng, chuông Thanh Mai có nét tương tự chuông Vân Bản, chuông chùa Bình Lâm (có niên đại vào giai đoạn Lý - Trần, đã được phát hiện trước đây) như hình dáng đôi rồng đấu lưng vào nhau; những hoa sen cánh to xen cánh nhỏ. Nhưng về nghệ thuật thể hiện thì chuông Thanh Mai còn đơn giản hơn. Thân rồng không có vảy, cánh sen to được thể hiện hoàn chỉnh, cánh sen nhỏ chỉ được thể hiện bằng một chấm nhỏ. Miệng chuông Thanh Mai thẳng liền với thân chuông, không loe và không có hình trang trí như trên mọi quả chuông sau này(3). Hình rồng trên chuông Thanh Mai cũng khác hẳn hình rồng trên chuông và trên hình trang trí trên bia ở các giai đoạn sau, nhưng nó lại cùng phong cách với hình rồng trên bia Trường Xuân (Thanh Hóa) có niên đại Tùy (Đại Nghiệp thứ 14: 618(4). Rõ ràng phần lạc khoản ghi trên chuông rất phù hợp với niên đại của nó. Qua bố cục bài minh văn và tự dạng ta biết được văn bản được khắc một lúc và là văn bản khắc lần đầu. Hoàn toàn không có hiện tượng khắc lại hoặc khắc thêm xen kẽ về sau. Trong văn bản có nhiều địa danh và chức tước phổ biến thời thuộc Đường như Quý châu, Tấm châu, Ái châu... hoặc Biệt tướng. Triết xung, Viên ngoại... Đặc biệt có những địa danh chỉ tồn tại trong giai đoạn đúc chuông này mà thôi. Ví dụ như địa danh Nghi châu... Nghi châu vốn là quận Lạc Bình của Liêu châu. Năm Vũ Đức 3 (620) tách thành Cơ châu. Năm Tiên Thiên nguyên niên đời Đường Huyền Tông (712) tránh tên của Huyền Tông nên gọi là Nghi châu. Năm Trung Hòa thứ 3 đời Đường Hi Tông (883) lại gọi là Liêu Châu. Sau này dùng theo như vậy(5). Văn bản còn có nhiều cổ tự và những dị thể ít gặp ở các giai đoạn sau như chữ "niên", "tuế", "nam"(6). Đặc biệt chữ "niên" ở đây rất giống chữ "niên" trong bia Trường Xuân năm 618 và trong một số văn bản kim thạch thời Đường ở Trung Quốc(7). Nó được viết gần giống như dương(8).

Do vậy, niên đại của văn bản khắc trên chuông và niên đại của chuông là một; hoàn toàn phù hợp với dòng lạc khoản tuyệt đối trên chuông là ngày 20 tháng 3 đủ (ngày mồng một là Tân tỵ, ngày cuối tháng là Canh tuất) năm Mậu Dần niên hiệu Trinh Nguyên 14 (798).

b. Vài khía cạnh về mặt văn bản.

Bài minh văn trên chuông Thanh Mai không có đầu đề, không ghi tên người soạn, người khắc và cũng không chia thành bài ký, bài minh như mọi minh văn trên chuông sau này. Mở đầu là một dòng ghi thời gian và lý do đúc chuông. Sau đó kê tên người tổ chức và tham gia đúc chuông. Có một bài kệ 12 câu nói về giáo lý nhà Phật và công dụng tiếng chuông được khắc ở ô phía dưới xen kẽ những dòng ghi họ tên người có công đức là dân thường.

Toàn bộ 4 ô ở phía trên ghi tên các vị quan chức với đầy đủ họ tên, chức tước của họ. Đặc biệt ở đây có nhắc đến một loại hình tổ chức trong xã hội lúc đó không phải là đơn vị hành chính, mà được gọi là Tùy hổ xã. Cơ cấu của nó gồm: xã chủ, xã phó, xã chúng, xã lục sự, xã bình chính, xã chi khiển, xã khổng mục... Văn bản cho biết 53 người trong Tùy hỉ xã tổ chức đúc chuông: "Tùy hỉ xã ngũ thập tam nhân cộng tạo minh chung nhất khẩu...". Khi liệt kê họ tên các vị này, văn bản không kê riêng những người trong "Tuỳ hỉ xã" và những người có công đức tham gia đúc chuông. Cả thảy 212 người, được khắc lần lượt từ 4 ô trên xuống 4 ô dưới với 78 vị quan chức, 8 vị thiện tín nhà Phật, còn lại là dân thường. Trong đó có người Việt, có người Hoa. Số người Hoa đó chủ yếu là quan lại đương chức, ngoài ra cũng có những quan chức đã bãi nhiệm và cả dân thường.

Đơn vị hành chính được đề cập đến trong văn bản này là châu, huyện. "Châu" trùm lên "phủ", "huyện". Có một vài "phủ" tương đương "châu". Văn bản đã ghi lại được 20 châu với 43 lần xuất hiện; 5 huyện với 5 lần xuất hiện. Trong đó có 5 châu, 5 huyện và 1 phủ nằm trong địa phận nước ta ngày nay. Số còn thuộc các vùng phía nam Trung Quốc.

Văn bản cũng ghi được khá nhiều chức tước khác nhau (51 loại). Một số loại có tần số xuất hiện cao như: Biệt tướng (19 lần), Thượng trụ quốc (12 lần), Triết xung (8 lần), Quả nghị (8 lần), Tướng sĩ lang (4 lần), Thượng hộ quân (4 lần), Thứ sử (4 lần)...

Tên người trong văn bản này được ghi đầy đủ họ tên như: Quách Tử Cương, Tô Tam Nương, Đỗ Nương Liên, Nguyễn Thị Thẩm... chữ "Thị" ở đây không phải để chỉ họ như người phương Bắc thường dùng(9) mà là tên đệm chỉ phụ nữ. Đặc biệt mã chữ "Thị" này đều có thêm một chấm ở bên cạnh(10). Cách dùng chữ "Thị" để chỉ phụ nữ đó là cách dùng phổ biến của người Việt mà ta gặp nhiều trong các văn bản sau này.

Dòng niên đại trên chuông cũng được ghi khá đặc biệt "Duy Trinh Nguyên thập tứ niên, tuế thứ Mậu Dần, tam nguyệt, Tân Tỵ, sóc, trấp nhật, Canh Tuất...". Đây là cách ghi năm can chi theo niên lịch và niên hiệu vua. Cách ghi đó muốn chỉ rõ năm Mậu Dần này là năm Trinh Nguyên thứ 14 và cũng là năm Mậu Dần có tháng 3 đủ với ngày mồng một là Tân Tỵ và ngày cuối tháng là Canh Tuất. Ghi như vậy để tránh nhầm lẫn với những năm Mậu Dần khác, và cũng để nhấn mạnh sự kiện đúc chuông này là hệ trọng(11). Những chữ đài trong văn bản này không dùng lối viết cao lên mà chỉ để cách một, hai chữ. Chữ đài đó không gặp trong trường hợp ghi niên hiệu vua mà là những chữ về Phật giáo như Phật, Pháp... Điều đó chứng tỏ Phật giáo khi ấy khá thịnh ở nước ta.

Về ngôn ngữ văn tự, văn bản được ghi bằng chữ Hán. Chữ khắc vuông vức, đường nét rõ ràng tiêu biểu cho loại chữ thời Đường - Tống mà các đời sau đã gọi loại chữ chân phương này là kiểu chữ "phỏng Tống"(12). Ngôn ngữ ở đây là văn ngôn. Tuy vậy đôi chỗ có phần gần gụi với khẩu ngữ Việt như câu "Nam xứng cửu thập cân" (90 cân Nam) hoặc câu "Quách Thị Ngung, nam Dịch, nữ Nương (Nàng) chức" (Quách Thị Ngung, con trai là Dịch, con gái là Nương (Nàng) chức). Tên gọi của những phụ nữ người Việt ghi trên chuông cũng rất thôn dã, mộc mạc như Nỗ, Hi, Đà... chữ Hán khắc trên chuông là lối chữ "khải". Duy có bộ "mịch" ở một số chữ được viết theo lối "tiểu triện". Những chữ "khải" có bộ "mịch" được viết theo lối "tiểu triện" này cũng thường gặp trên một số văn bản thế kỷ XVII, XVIII như trên một số văn minh văn Tùy - Đường(13).

Trong văn bản có khá nhiều cổ tự và những chữ dị thể, hoặc có những chữ ít gặp trong các văn bản đương thời và các từ điển sau này. Xin thống kê một số trường hợp tiêu biểu (xem phụ bản).

c. Một số vấn đề về chủ nhân và nguồn tư liệu trên chuông:

Như ở trên đã nêu, quả chuông được tìm thấy ở sâu trong lòng đất ven đê sông Đáy. Xung quanh chuông không có hiện vật gì kèm theo, không có dấu vết của sự chôn cất hoặc mai táng. Điều đó chứng tỏ rằng chuông bị nước cuốn trôi và cát phù sa vùi lấp. Kết hợp với phong cách chuông và đặc trưng văn bản trên chuông, chúng tôi cho rằng chuông này được đúc trên đất Việt.

Chuông Thanh Mai do người Hoa và người Việt đúc. Trong số người Hoa đó có người có mẹ là người Việt, có người có cả gia đình con cái sống trên đất Việt, có người là dân thường vốn dĩ từng là quan chức trong triều đình phương Bắc. Điều đó chứng tỏ người Hoa di cư sang nước ta thời đó hẳn không ít. Đáng lưu ý câu ghi về trọng lượng chuông: dòng đầu ghi chuông nặng 90 cân, dòng cuối cùng cũng ghi chuông nặng 90 cân. Nhưng là cân Nam. Từ đó có thể cho rằng quả chuông này chủ yếu là sản phẩm của người Việt và được lưu truyền sử dụng trên đất Việt.

Văn bản chuông Thanh Mai là một trong những văn bản sớm nhất hiện biết trên đất nước ta. Tuy muộn hơn văn bản trên bia thời Tùy ở Thanh Hóa (năm 618)(14) nhưng văn bản này khá trọn vẹn. Vì thế tư liệu trên văn bản chuông Thanh Mai hết sức ý nghĩa trong việc tìm hiểu xã hội người Việt thời Bắc Thuộc. Nội dung và giá trị tư liệu này, chúng tôi xin trình bày trong dịp khác và nhường lại cho các nhà nghiên cưu lịch sử khai thác. Dưới đây chúng tôi xin dịch và công bố toàn bộ văn bản để cùng tham khảo.

Dịch nghĩa:

Vào ngày 20 tháng 3 năm Mậu Dần niên hiệu Trinh Nguyên thứ 14 (798)(15) 53 người trong Hội Tùy hỉ(16) cùng đúc một quả chuông kêu bằng đồng 90 cân để lưu truyền cúng lễ.

Xã chủ(17), Tướng sĩ lang(18) Đỗ Tiên Thị nguyên Huyện úy(19) huyện Yên Lạc, châu Tư Lăng(20).

(Xã) phó(21), Tản tướng(22), Thú tả Kim Ngô Vệ Hoàng Thái Chửng giữ chức Biệt Tướng(23) phủ Thanh Cốc thuộc Châu Nghi(24).

(Xã) phó Quách Tử Cương giữ chức Triết cung đô úy(25) phủ Yên Lạc thuộc châu Tấm(26).

(Xã) chúng(27) tôn thị lão Vương Huấn Chân - Đỗ Tiến Ninh nguyên quyền Huyện lệnh(28) huyện Văn Dương thuộc châu Trường(29).

Phán quan(30) Đỗ Bị giữ chức Biệt tướng phủ âm Bình thuộc châu Văn(31), được ban đầy thêu cá vàng(32).

Xã lục sự(33) Đỗ Du Tần.

Quách Du Lý giữ chức Triết xung phủ Yên Lạc thuộc châu Tấm.

Tướng sĩ lang Hoàng Hán Hốt nguyên Huyện úy huyện Hán Hội thuộc Châu Vi(34).

Thượng trụ quốc(35) Lý Thiên Hạnh.

Biệt tướng Ngô Tiến Sĩ, thú tả nhiêu Vệ(36) phủ Vạn Cát thuộc châu Tuy(37).

Xã binh chính(38) Hoàng Trí Đãi.

Cao Thảo giữ chức Triết xung phủ Giám Xuyên thuộc châu Giám(39).

Đỗ Triều Lương giữ chức Biệt tướng phủ Long Sơn thuộc châu Quý(40).

Lý Thiên Dương chức chức Biệt tướng phủ Vạn Cát thuộc châu Tuy.

Biệt tướng Hoàng Thái Bị, thú tả nhiêu vệ phủ Vạn Cát thuộc châu Tuy.

Trần Kỳ giữ chức quả nghị(41) phủ Yên Lạc thuộc châu Tấm.

Thượng hộ quân(42) Lã Sơ giữ chức Lục sự tả quả nghị.

Triết xung Dương Chất giữ chức Hữu khả bồi nhung(43), hiệu úy(44), thú tả uy phủ âm Bình thuộc châu Văn.

Nguyễn Tề Mục giữ chức Đồng kinh lược nha tiền thập tướng(45).

Thượng hộ quân Đỗ quân giữ chức Biệt tướng phủ Dung Sơn.

Quách Tiên Kiệt giữ chức Biệt tướng, phủ Long Sơn thuộc châu Quý.

Xã chi khiển(46) Đỗ Thái Minh.

Nguyễn Dung giữ chức Biệt tướng phủ Thượng Đức thuộc châu Sóc(47) Nguyễn Ninh giữ chức Triết xung phủ Thượng Đức thuộc châu Sóc.

Đỗ Hiền giữ chức Biệt tướng phủ Vạn Cát thuộc châu Tuy.

Đỗ Cán Tuấn hàm tứ phẩm, tước tử.

Quách Lập giữ chức Triết xung phủ Tứ môn thuộc châu Kinh(48) được ban đẫy thêm cá vàng.

Thượng trụ quốc Đỗ Như Thái.

Biệt tướng Quách Tính, thú tả vệ phủ Thượng Đức thuộc châu Sóc.

Biệt tướng Dương Phượng Thước, thú tả nhiêu vệ phủ Văn Vũ thuộc châu Tuy.

Xã Khổng mục(49) Cao Tích.

Tướng sĩ lang cao Ánh Văn giữ chức Biệt giá, coi việc quân trong châu Uyển.

Thượng hộ quân Quách Kha.

Hoàng Vịnh giữ chức Biệt tướng phủ Li Thạch thuộc châu Thạch(50).

Hoàng Tá giữ chức Biệt tướng phủ Vạn Cát thuộc châu Tuy.

Thượng trụ quốc Nguyễn Đình Cốc.

Đỗ Kiển giữ chức Biệt tướng phủ Li Thạch thuộc châu Thạch.

Biệt tướng Cao Quách

Binh tào thiêm quân, thú tả uy Vệ Tô giữ chức Biệt tướng phủ Âm Bình thuộc châu Văn.

Hoàng Long Ngộ giữ chức Biệt tướng phủ Cát thuộc châu Từ(51).

Giữ chức Biệt tướng phủ Li Thạch thuộc châu Thạch.

Thượng hộ quân Nguyễn Triều...

Thú tả vệ phủ Thượng Đức thuộc châu Sóc, Đỗ...

Thú tả kim ngô vệ Vương Mậu giữ chức Quả nghị phủ Yên Lạc thuộc châu Tấm.

Thú Vương, Tăng Pháp Hiền

Thượng hộ quân Vũ, giữ Quả nghị phủ Am Bình, thuộc châu Văn.

Quả nghị Đỗ Thừa Vị, thú tả vệ phủ Yên Lạc thuộc châu Tấm.

Quả cố Nguyễn Đình Thu.

Quả cố Đỗ Tiên Đường.

Nhà tiền tử tướng(52) Cao Thái Bình giữ chức Biệt tướng phủ Hạ Tập thuộc châu Hạ(53), được ban đẫy thêu cá vàng. Mẹ là Kiếu Thị Hy vợ là Đỗ Thị Xuyên.

Thị lão Quách Du Quảng được phong Thượng trụ quốc.

Thượng trụ quốc Hoàng Như Đao giữ chức Biệt giá(53) châu Ngạn, được ban đẫy thêu cá vàng.

Bồi nhung phó úy, thú tả kim ngô vệ phủ Lư Xuyên thuộc châu Lư(54) Chu Thái Chất giữ chức Triết xung đô úy, viên ngoại(55), chí đồng chánh viên và vợ là Vạn Thị Tại, vợ kế là Anh Tư, Anh Đạt.

Trụ quốc Lã Hoài giữ chức Đồng kinh lược thập tướng nguyên làm Tả thân xa phó tào quân phủ Nghĩa Vương, kiêm chức Biệt giá châu Qui, được ban đẫy thêu cá vàng đã quá cố. Hoàng Sổ nguyên quyền huyện úy huyện Văn Dương thuộc châu Trường.

Thất ty Viện trưởng Lý Chân và vợ là Đỗ Thị Chế.

Tả Quả nghị Trịnh Hồ thú tả vệ phủ Thượng Đức thuộc châu Sóc.

Tướng sĩ lang Quách Phương coi việc quân trong châu Long, nguyên quyền Huyện ủy huyện Nhật Nam thuộc châu Ái(56).

Quách Tiên Vị, Quách Kỷ giữ chức Biệt tướng phủ Long Sơn thuộc châu Quý.

Thượng trụ quốc Đỗ Anh Hàn giữ chức Kinh lược tiên phong binh mã sử(57), Nghĩa quân đô tri binh mã sử(58) nguyên quyền Thứ sử Ái châu, Triều Nghị lang sứ, coi giữ việc quân trong châu Trường, đương nhiên chức Châu du bôn sử, được ban đẫy thêu cá vàng.

Thượng trụ quốc Đỗ Hoài Bích giữ chức Quản nội đại nghĩa, Thú ngân thanh quang lộc đại phu(59), Thành Thái thường khanh, Tả tướng binh mã sứ, phó đô hộ sứ(60) coi việc quân trong châu quận, Thứ sử châu quận, sung làm bản châu du sứ, được ban đẫy thêu cá vàng.

Quá cố Ngụy Vụ Thông nguyên giữ chức Sĩ Tào, Tham quân(61) ở bản phủ, được phong Thượng trụ quốc. Vợ là Bùi Thị Anh, Trịnh Trị.

Thượng trụ quốc Đỗ Thiếu giữ chức Kim thể triết xung, Chiêu Vũ hiệu úy châu, vợ là Trịnh Thị Trạm (?).

Thượng trụ quốc Đỗ Quảng Du giữ chức Triều Nghị lang sứ(62) coi việc quân trong châu Tây Bình(63), làm Thứ sử châu Tây Bình, được ban đẫy thêu cá vàng. Vợ là Ngụy Thị Chủ. Đỗ Thị Chi.

Cân Nam 90 cân.

Thí chủ Tô Tam Nương, Lý Thị Bình, Cao Ngọc Thọ, Đỗ Lương Ích, Đỗ Nương Nạn, Trịnh Thị Chế, Đỗ Nương Liên, Đỗ Thị Anh, Phan Thị Trạch, Đỗ Thị Sảo, Quách Nương Lỗ, Quách Nương Trịnh, Quách Nương Uẩn, Quách Nương Hồ, Tô Thị Lục, Đỗ Nương Nhuyến, Nguyễn Thị Thẩm, Quách Việt Nương, Đào Pháp Man, Khiên Thị Câu, Quách Nương Đan, Quách Thị Hạt, Hoàng Thừa Huấn, Hoàng Nương Diểu, Vương Nương Châm, Đỗ Thị Nhất, Quách Thị Nghĩa, Trương Thị Khâm, Quách Thị Chuy, Đỗ Thị Thứ, Quách Nương ? Quách Thị Kiểu, Nguyễn Thị Bạch, Phùng Thị Sa, Quách Thị Cục, Đỗ Thị Lục, Lý Thị Chiêu, Cao Vương Đặc, Cao Ngọc Miễn, Đỗ Đình Khiết, Hoàng Kim Hi, Đỗ Thị Đà, Cao Ngọc Tiên, Đỗ Pháp Tranh, Dật Thị Sủng, Cao Vân Tám, con trai là Nô, con gái là Nương (nàng) Đan Vương Thị Vượng, Nguyễn Thị Tỷ, Trần Thị Ẩm, Chu Phiêu, Chu Thị Văn, Đồ Thị Giải, Cao Diệu Tư, Trụ quốc Vương Sở quang và vợ là Hoàng Thị Nỗ, Nguyễn Pháp Liên, Cao Thị Dinh, Thượng trụ quốc Hoàng Lệnh Hi và vợ là Phùng Thị Bạch, Đỗ Nương Xuân, Lã Nương Hạp, Lã Nương Thư, Đỗ Thị Tiêu, Quách Thị Ngung, con trai là Dịch, con gái là Nương (nàng) chức. Trịnh Thị Chi, Kiều Thị Đại, Thạch Trường Nhuế vợ là Lộc Điều, Mẫn Thị Nhãn, Đỗ Thị Hàm, Cao Thị Mê, La A Liệt, Đỗ Thị Kiệt. Tín tài thí chủ Đỗ Thị Di, Đỗ Thị Yên, Tạ Thị Quý, Quách Thị Uất, Trịnh Thị Dã, Tê tài thí chủ Đỗ Ngọc Nương. Động Huyền đệ tử Trịnh Tề Cán, vợ là Đỗ Kim Nương, con gái là Tỉ Nương, Đỗ Nương Sách, Đỗ Thị Tài, Đỗ Thị, Đỗ Thị Bôn, Tô Thị Miêu, Trần Bột Cước, Chu Nương Tý, Trịnh Nương Đáng, Đỗ Thị Nẫm. Thị lão Hoàng Tiên Lộc, Quách Du Vương Nương Tác, Cao Trinh Tùng. Quá cố Nguyễn Ký Trường, Đỗ Tiên Đĩnh. Thượng trụ quốc Đỗ Trung Lương. Đô thập nhị khanh đoàn đầu Trần Tá. Hoàng Thị Trang, Giang Thị ? Cao Thi ? Nguyễn Thị ?. Cao Thị Đức. Hoàng Thị Sử, Quách Thị Nỗ, Cao Thị Hương. Quá cố Trần Thị Tư, Hoàng Nương Nẫm. Quá cố Quách Thị Quý, Lý Biện Đệ, Quách Hãm, quá cố Trần Thị Thanh, Quách Thị Triều, Hoàng Thị Lợi, Quách Thị Nương, Đỗ Anh Cường, vợ là Lê Thị Lễ, Nguyễn Chân Nghệ, Hoàng Thị Tuyển, Nguyễn Thị ? Hoàng Như Trinh, Lê Thị Tiểu, Quách Thị Đại, Quách Xuân Cù, Quách Thị Phương, Vương Nương Thứ, Đỗ Trục Nhật, Trần Thị Hạnh, Cao Thị Nhãn, Đỗ Thị Dục, Đỗ Thị Ngạc, Vương Thị Hỉ, Đỗ Thị Du, Đỗ Thị Chế, Đỗ Thị Đản.

Hồi tâm dựng phúc(64)

Cùng tạo minh chung

Trời xa ứng nghiệm

Địa ngục(65) tường minh

Tam đồ(66) hết khổ

Bát nạn(67) tiêu khuynh

Thân nay giả hữu

Muôn kiếp lưu danh

Cận kề Phật pháp

Âm hưởng cùng vang

Công danh xin gửi,

Bất diệt vô sinh

Ngô Thị Kế, Hoàng Trục Nhật, Dương Phương Tường, Giang Thị ?(68) Cao Thị Bôn, Cao Thị Dĩnh, Cao Thị Nhị, Trương Tiên Đỗ và vợ là Lý Thị Chương, Trần Thị Nương, Nguyễn Thị Giám, Đỗ Như giữ chức Quả nghị phủ Yên Lạc thuộc châu Tấm và vợ là Vương Thị, Thị lão Đỗ Kinh đã quá cố, Đỗ... Cao Thị Hôn. Biệt tướng Đỗ Toàn Kỷ và vợ là Quách Thị Trạch, Đỗ Thị (?). Đỗ Thị Hàm, Đỗ Thị Yết, Trần Du Kiện và vợ là Đỗ Thị Nhật, Bạch Ma Lệnh, Lê Thị Diệu.

CHÚ THÍCH

(1) Trinh Nguyên: niên hiệu Đường Đức Tông (785-810).

(2) Nguyên văn là "Tïy hỉ xã", "Xã" ở đây không phải là đơn vị hành chính như sau này thường dùng. Từ nguyên giải thích: "Đồng chí hội tập chi sở viết xã, như thị xã, văn xã" (nơi mà những người cùng chí hướng tụ hội gọi là xã như Thi xã (Hội thơ), Văn xã (Hội văn). Tùy Đường Phật giáo sử cảo, Bắc Kinh, 1982, tr.62 ghi "Kết xã vi Phật giáo tổ chức chi nhất chủng" (một loại tổ chức Phật giáo gọi là kết xã) và (kết xã cùng làm phúc, điều ước nghiêm minh như công pháp)... Thời Đường, Pháp sư ở Ích châu lập "nhất phúc xã". Vì vậy có thể hiểu "Tuỳ hỉ xã" là Hội tuỳ hỉ, hội của tất cả những ai tự nguyện đến, tuỳ thích vì sự sùng Phật.

(3) Xã chủ: người đứng đầu hội Tuỳ hỉ

(4) Tướng sĩ lang: là tên gọi một chức quan thuộc tản quán, chức này được đặt từ thời Đường, tòng cửu phẩm. Từ Khai phủ đến Tướng sĩ lang có 28 bậc làm văn tản quan. Văn tản quan từ tứ phẩm trở xuống thì làm Phiên thượng ở Lại bộ (theo Tân Đường Thư, phần Bách quan chí).

(5) Huyện úy: tên một chức quan, có từ thời Hán, nhà Hán đặt Huyện úy ở các huyện để trừ đạo tặc, gian manh. Nhà Đường dùng theo nhà Hán, nhà Minh bỏ (theo Tuỳ Đường Ngũ đại sử cảo, phần Quan chế thượng)

(6) Tư Lăng châu, Yên lạc huyện: Tân Đường thư chép châu Tư Lăng thuộc đạo Lĩnh Nam. Theo Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời thì châu Tư Lăng là một trong các châu ky my của phương Bắc. Như vậy châu Tư Lăng thuộc địa hạt nước ta, nay thuộc khu vực tỉnh Lạng Sơn.

(7) Xã phó: bên cạnh xã chủ.

(8) Tản tướng: là một loại hàm thuộc Tản quan, không có chức vụ.

(9) Kim ngô vệ: tên một chức quan. Từ Nguyên giải thích: "Ngô giả, ngự dã" và chua là "Thiên tử xuất hành". Kim Ngô vệ: phò tá vua. Tả kim ngô vệ: là một chức tán quan ở phủ, phò tá cho quan phủ (Tân Đường thư).

(10) Biệt tướng: tên một chức quan. Từ nguyên giải thích "Tiểu tướng biệt tại tha sở giả, viết Biệt tướng" (Tiểu tướng biệt phái ở vùng xa gọi là Biệt tướng). Chức Biệt tướng có từ thời Hán. Thời Đường dùng theo Hán (Tùy Đường ngũ đại sử cảo, Sđd).

(11) Nghi châu, Thanh cốc phủ: năm Vũ Đức 3 (620), tách quận Lạc Bình của châu Liêu gọi là Châu Cơ. Năm Thiên Nguyên đời Đường Huyền Tông (712), tránh tên Huyền Tông là Cơ nên gọi là Nghi Châu. Năm Trung Hòa 3 (883) đời Đường Hi Tông lại gọi là Liêu Châu. Có 3 phủ Liêu Thành, Thanh Cốc, Long Thành (Tân Đường thư).

(12) Triết xung đô úy: lên một chức quan. Thời Tùy trong quân cấm vệ có Triết xung. Thời Đường đặt Triết xung đô úy. Toàn quốc đặt chức Triết xung ở phủ để điều động dân binh (Theo Tùy Đường ngũ đại sử cảo, Sđd)

(13) Tấm châu, Yên lạc phủ: Có từ thời Tùy, thời Đường dùng theo. Châu Tấm thời Đường có 6308 người gồm 3 huyện và 2 phủ (phủ Yên Lạc và phủ Diên Song) (Theo Tân Đường Thư). Nay thuộc khu vực tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

(14) Xã chúng: hội viên của hội Tùy hỉ. Xã chúng tôn thị lão: là bậc giả cả, thành viên của hội Tùy hỉ.

(15) Huyện lệnh: tên một chức quan. Nhà Hán quy định các huyện từ Vạn hộ trở lên đều có Huyện lệnh Tấn, Tống, Đường dùng theo (theo Tùy Đường ngũ đại sử cảo, Sđd).

(16) Trường Châu Văn Dương huyện: có từ thời Đường Năm Thiên Bảo 1 (742) đổi ra quận Văn Dương Năm Càn Nguyên (758) đổi làm Trường Châu, vị trí nằm giữa Ái Châu và Phong Châu (Theo Tân Đường thư)

(17) Phán quan: Tên một chức quan, có từ thời Đường. Các Tiết độ quan sát sứ đều có Phán quan làm Liêu thuộc, coi việc kiện tụng (theo Tùy Đường Ngũ đại sử cảo Sđd).

(18) Văn Châu Âm Bình phủ: Theo Đất nước Việt Nam qua các đời thì châu Văn nằm ở phía Nam châu Văn Uyên và châu Văn quan. Châu Văn Uyên nay là huyện Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn. Do vậy phủ Am Bình, châu Văn thuộc địa phận nước ta nay ở đất Lạng Sơn.

(19) Nguyên văn: "Phi ngư đại". Ngư đại có từ thời Đường ban đầu gọi là Ngư phù (phù tín hình con cá) gồm 2 nửa trái, phải. Nửa trái tiến vào cung cấm, nửa phải mang theo người, khắc họ tên chức tước lên. Người ra vào cung cấm phải khớp vào cho hợp. Phù tín hình cá đặt trong túi nên gọi là Ngư đại. Túi thêu hình cá màu vàng gọi là Kim ngư đại. Các quan chức được ban Kim ngư đại là "huân quan" (quan được ân thưởng) (theo Tùy Đường Ngũ đại sử cảo, Sđd).

(20) Xã lục sự: Lục sự là một chức quan có từ thời Tấn. Xã lục sự là chủ bạ (thư ký) của hội Tùy hỉ.

(21) Châu Vi: thuộc đão Lĩnh Nam. Đạo Lĩnh Nam thời Đường có 92 châu. Châu Vi là một trong số đó, có 3 huyện là Đô Long, Hán Hội và Vũ Linh (theo Tùy Đường Ngũ đại sử cảo, Sđd).

(22) Thượng trụ quốc: tên một chức quan có từ thời Chiến quốc, chỉ người lập công giết được tướng giặc. Thời Đường có Trụ quốc Thượng Trụ quốc, Thượng Trụ quốc là quan tôn quí nhất, Trụ quốc ở mức thấp hơn. Là loại "huân quan" (theo Tùy Đường Ngũ đại sử cảo, Sđd).

(23) Tả nhiêu vệ: nhiêu vệ là tên một chức quan thuộc loại cấm quan có từ thời Hán. Thời Đường dùng theo (theo Tùy Đường Ngũ đại sử cảo, Sđd).

(24) Tuy Châu - Vạn Cát phủ: Tây Ngụy đặt Tuy châu. Tùy đổi làm Thượng châu. Đường đặt lại Tuy châu gồm 5 huyện, 2 phủ. Nay giáp phía tây huyện Tuy Đức tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc (theo Tân Đường thư Từ nguyên).

(25) Xã bình chính: một chức danh trong hội Tùy hỉ bên cạnh Xã lục sự.

(26) Châu giám: có từ thời Tùy. Thời Đường, Tống vẫn dùng, thuộc đạo Kiếm Nam. Thời Tống đặt thông phán nay thuộc vùng phía Nam Trung Quốc (Từ hải).

(27) Châu Quý: vốn là quận Uất Lâm châu Nam Định. Năm Trinh Quán 8 (634) đặt Quý châu, gồm 4 huyện và 1 phủ (phủ Long Sơn) nay thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc (theo Tân Đường thư Từ nguyên).

(28) Quả nghị: tên một chức quan có từ thời Đường, một loại thống lĩnh quân trong phủ (thống phủ binh chi quan) tương tự chức Triết xung (Tùy Đường Ngũ đại sử cảo, Sđd).

(29) Thượng Hộ quân: Hộ quân: tên một chức quan. Thời Tần có Hộ quân đô úy. Thời Hán "Hộ quân đô úy" thuộc Đại tư mã chia làm thượng, trung Thời Đường lấy hoạn quan làm Trung hộ quân. Thượng hộ quân ở mức cao hơn (theo Tân Đường Thư Tùy Đường Ngũ đại sử cảo).

(30) Bồi nhung: tên một chức quan cũng như Bồi thặng - người phụ giá cho bậc tôn quí (theo Từ nguyên).

(31) Hiệu úy: tên một chức quan. Hán Vũ đế đặt Thành môn hiệu úy, Tư lệ hiệu úy, lãnh đồn binh, hưởng trật 2000 thạch. Thời Đường dùng theo. Lục phẩm trở lên đối với quan võ gọi là Tướng quân. Lục phẩm trở xuống gọi là Hiệu úy (theo Tùy Đường Ngũ đại sử cảo).

(32) Kinh lược: tên một chức quan. Thời Đường sơ, biệt đặt Kinh lược sứ ở biên châu (châu biên ải). Sau này Tiết độ sứ kiếm nhiệm cả (theo Tuỳ Đường ngũ đại sử cảo, Sđd).

(33) Xã chi khiển: là một chức danh trong hội Tùy hỉ. Có lẽ là thư ký của hội này.

(34) Châu Sóc: được đặt năm Vũ Đức 4 (621) gồm 2 huyện, 1 phủ thuộc đạo Sơn Tây (theo Tuỳ Đường Ngã đại sử cảo, Sđd), nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

(35) Châu Kính: có từ Hậu Ngụy. Thời Đường vẫn dùng. Nay thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc (theo Từ nguyên)

(36) Xã khổng mục: một chức danh trong hội Tùy hỉ.

(37) Châu Thạch: có từ Bắc Chu. Thời Tùy, là quận Li Thạch. Thời Đường năm Vũ Đức 1 (618) đặt châu Thạch, có 5 huyện, 2 phủ (phủ Li Thạch và Xương Hóa), nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

(38) Châu Từ: thời Đường thuộc đạo Hà Đông, có 5 huyện, nay thuộc tỉnh Hà Đông, giáp tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

(39) Nha tiền: mộc chức quan phục dịch có từ thời Đường, thời Tống, công việc rất hệ trọng, do Ngự sử sung tiến (theo Từ nguyên).

(40) Châu Hạ: có từ Hậu Ngụy. Thời Đường vẫn dùng, thời Tống sơ gọi Tây Hạ. Thời Nguyên bỏ. Nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc (theo Từ Nguyên).

(41) Biệt giá: tên một chức quan, có từ thời Hán, phụ tá cho Thứ sử châu. Thời Tùy và thời Đường vẫn dùng, nhưng phụ tá cho viên quan quận (theo Từ nguyên).

(42) Châu Lư: có từ thời Lương. Thời Đường có 5 huyện, thuộc đạo Kiềm Nam, nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc (theo Tân Đường Thư Từ hải)

(43) Viên ngoại: tên một chức quan, có từ Lục Triều. Có viên ngoại lang để phân biệt với Thị lang, Nhà Đường đặt ở Lại bộ, chính ngạch quan.

(44) Ái châu Nhật Nam huyện: nhà Hán đặt Nhật Nam quận, nhà Đường năm Thiên Bảo 1 (742) đặt Nhật Nam huyện (theo Tân Đường Thư). Châu Ái thuộc địa phận nước ta, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.

(45) Kinh lược tiên phong binh mã sử: chỉ chức quan đứng đầu đội quân ở biên ải. Xem thêm chú thích số 37 về Kinh lược.

(46) Nghĩa quân đô tri binh mã sứ: Đô trị tương đương với Lục sự, có chức Lục sự đô tri là một loại quận quan. Cũng là chức quan đứng đầu đội quân trong châu quận (theo Từ nguyên).

(47) Quang Lộc đại phu: tên một chức quan có từ thời Hán. Thời Đường xếp vào loại Tản quan, chia làm 3 bậc: Quang lộc đại phu tòng nhị phẩm, tiếp theo là Kim tử quang lộc đại phu và cuối cùng là Ngân thanh quang lộc đại phu (theo Tùy Đường Ngũ đại sử cảo, Sđd).

(48) Đô hộ sứ: tên một chức quan tăng cường cho Tây Vực. Sau đó dùng cho các châu ki mi.

(49) Tham quân: tên một chức quan có từ thời Hậu Hán là "tham mưu quân vụ" gọi tắt là Tham quân. Thời Tùy - Đường, Tham quân kiêm quận quan (theo Tùy Đường Ngũ đại sử cảo, Sđd).

(50) Triêu nghị lang sứ: tên một chức quan, thuộc hàng tán quân, coi xét đức hạnh quan lại trong châu quận (theo Cựu Đường thư).

(51) Tây Binh châu: thời Đường thuộc đạo Lĩnh Nam, nay ở khu vực Đồng Đăng và phố Lạng Sơn của nước ta (theo Tân Đường Thư Đất Nước Việt Nam qua các đời, Sđd).

(52) Đây là bài kệ đọc khi thỉnh chuông.

(53) Địa ngục là một đường trong Lục đạo, một cảnh trong Lục thú, có đủ mọi nỗi khổ.

(54) Tam đồ: là 3 chốn hình phạt trong 3 cõi Địa ngục, ai ở trong cảnh Tam đồ cực khổ mà thấy được ánh sáng của Phật A Di Đà thì liền hết khổ não, có thể giải thóat.

(55) Bát nạn: 8 nạn rủi, 8 chướng nạn gọi là Bát vô hạ (tám chỗ không rảnh). Ngạn ngữ ta có câu: "Phật còn mang tám nạn huống chi người sao khỏi ba tai" (theo Từ điển Phật học).

(56) Có một số tên người chúng tôi không thấy có trong từ điển và cũng chưa rõ cách đọc tên nên để dấu chấm hỏi (?).

TB

XUNG QUANH MỘT SỐ TÀI LIỆU
LIÊN QUAN ĐẾN LÝ TỬ TẤN VÀ VĂN BẢN

NGỌC NHUẬN

Lý Tử Tấn nhà văn, tác giả yêu nước nửa đầu thế kỷ XV, nguyên tên là Tấn, tự là Tử Tấn, về sau lấy tự làm tên, thành tên Lý Tử Tấn, hiệu Chuyết Am, người làng Triều Đông, huyện Thượng Phúc, nay thuộc xã Tân Minh, huyện Thường Tín, Hà Sơn Bình.

Ông đỗ Thái học sinh năm Canh Thìn (1400) đời Hồ Quý Ly.

Trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh ông đến hành tại yết kiến Lê Lợi, được nhà vua khen là người học rộng, cho giữ việc văn thư. Ông làm quan đến Hàn lâm ở Kinh diên trải các triều vua Lê Thái Tông, Nhân Tông(1)...

Các học giả xưa nay như Lê Quí Đôn, Phan Huy Chú, Trần Văn Giáp... đã giới thiệu về Lý Tử Tấn. Trong bài viết này, chúng tôi muốn tìm hiểu thêm về tiểu sử và sáng tác của ông qua các tích cổ nơi quê hương ông và văn bản thơ văn của ông còn lại trong kho sách Hán Nôm.

Chúng tôi tới xã Tân Minh, nơi Lý Tử Tấn sinh ra và lớn lên cách đây hơn 5 thế kỷ.

Xã Tân Minh gồm 3 xóm nhỏ, xóm 1 chính là thôn Triều Đông xưa kia. Ngày nay thôn Triều Đông còn lại 3 khu vực di tích đáng lưu ý:

- Nền đình cổ thôn Triều Đông.

- Khu văn chỉ xã.

- Chùa Đại Bi nằm trên đất thôn(2).

Mỗi thôn nằm trong xã Tân Minh trước đây đều xây dựng một ngôi đình. Ngôi đình cổ thuộc thôn Triều Đông đã bị phá hủy trong những năm chiến tranh chống Pháp Mỹ, nay còn lại nền đình, bệ đá nằm ven bờ sông Nhuệ.

Đến Triều Đông, người ta được nghe kể một câu chuyện truyền tụng trong dân gian về Chuyết Am tiên sinh:

"Sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, Lý Tử Tấn được phong quan tước(3). Như các nho sĩ làm quan đương triều thuở trước, ai nấy đều muốn "áo gấm về làng". Vào một ngày đẹp trời, theo đường thủy, ông từ Kinh đô Thăng Long ngược sông Hồng vào sông Nhuệ về thăm chốn cũ. Thuyền cách làng chừng 5 dặm đường. Thấy một ngôi đình ven bờ sông phong cảnh nên thơ, ông dừng thuyền vào thăm, ở lại một, hai ngày. Sau dời neo bơi ngược về làng, đến ngôi đình của thôn nhà, ông cùng tùy tùng vào lễ và dâng đồ thờ. Dân làng, kỳ mục chức sắc ra đón "tiên sinh" từ hôm trước, vì lỡ hẹn nên không gặp. Bận việc quan, ông lại xuống thuyền quay trở về Kinh đô. Sau lần đó, Chiết Am không còn dịp về làng".

Có lẽ công việc nội chính, bang giao thuở ấy khá bận rộn nên Lý Tử Tấn chưa thỏa được cái chí tiêu dao sông nước, thăm chốn cố hương(4).

Trên một quả gò nhỏ, cách nền đình thôn không xa, dân làng xưa xây dựng một khu văn chỉ. Phần kiến trúc văn chỉ hình chữ nhật, rộng 5m, dài 6m, có tường thấp bao quanh, hiện còn nhà bia, hai ngai thờ hai bên, bệ thờ chính giữa. Tại nhà bia lưu được 3 tấm bia (2 tấm bia thời Nguyễn), 1 tấm bia thời Lê). Một trong hai tấm bia thời Nguyễn đề niên đại: Ngày mùng 7 tháng 9 năm thứ 2 niên hiệu Khải Định (1917)(5). Đầu đề khắc như sau: "Tư văn bi ký" (Bia ghi của hội Tư văn). Nội dung chép những thể lệ cúng tế vào tuần tiết trong năm của Hội tại văn chỉ. Hai dòng đầu người làm bia viết(6): "Chức sắc, kỳ mục, lý dịch cùng Hội trưởng tư văn ba thôn thuộc xã Triều Đông, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín đứng ra lập bạ lệ. Nguyên xã ta địa linh nhân kiệt, đời đời nối tiếp trâm anh. Trước đây có Bảng nhãn Lý Tử Tấn, Tiến sĩ Đào tiên sinh"(7).

Về địa danh tấm bia cho biết, đến niên hiệu Khải Định (1916-1925) 3 thôn đây còn được gọi là xã Triều Đông.

Theo Lịch triều đăng khoa lục thì Lý Tử Tấn đỗ Đệ nhị giáp khoa Canh Thìn Thánh Nguyên thứ nhất triều nhà Hồ (1400)(8). Việc ghi dòng "Bảng nhãn Lý Tử Tấn" như tấm bia trên, ta có thể tạm lý giải: từ ý muốn đề cao những nhân vật quê hương mình mà người làm bia đã viết như vậy.

Tấm bia thứ hai khắc đầu đề "Từ Vũ bi" dòng đầu ghi: "Tạo lập từ vũ bi ký" (Bia ghi việc xây dựng khu đền thờ ở Văn chỉ). Nội dung có đoạn viết: (9) Nay xã Triều Đông ta chốn trời Nam từ khi (...)(10) những người ứng khoa đỗ đạt, thờ chúa giúp dân không thiếu (...). Vào ngày mùng một tháng 3 năm Nhâm Thìn bắt đầu khởi công xây (văn chỉ), đến ngày 14 tháng 4 hoàn tất (...). Tiến sĩ Đào Như Hổ thời Cảnh Thống làm quan đến chức (...)(11).

Khoảng ghi niên đại dựng bia bị mờ, không đọc được. Dựa trên hoa văn trang trí hai bên diềm bia, chúng tôi cho rằng bia được dựng sau thời Cảnh Thống, vào thời Chính Hòa niên hiệu vua Lê Hy Tông năm Nhâm Thìn (1652); đây cũng là năm xây dựng khu Văn chỉ lần đầu.

Khi xem lại một số tư liệu liên quan tới tiểu sử, văn bản tác giả, chúng tôi thấy cần bàn thêm một đôi nét về Chuyết Am.

Hợp tuyển thơ văn Việt Nam(12) ghi lại rằng: Lý Tử Tấn sinh năm 1378 mất năm 1457, Từ Điển văn học(13) lại cho rằng ông mất năm 1454, không rõ dựa vào những sách nào mà các tác giả đoán định như vậy. Trong một bài tựa của Lý Tử Tấn đặt ở đầu sách Việt âm thi tập(14) in lại năm 1729 có ghi rõ ông viết vào năm Diên Ninh thứ 6 (1439). Như vậy Lý Tử Tấn có thể mất sau năm 1459, ông thọ trên 80 tuổi.

Một khía cạnh khác trong cuộc đời Lý Tử Tấn, là tình bạn giữa Nguyễn Trãi với ông. Cùng xấp xỉ nhau về tuổi tác, hai người cùng huyện Thượng Phúc, kể theo đường tắt qua cánh đồng cách nhau không quá 8 cây số đường chim bay. Hai ông lại đỗ cùng khoa thời nhà Hồ (1400).

Những năm cuối cuộc kháng chiến chống giặc Minh, Lý Tử Tấn đến hành tại ra mắt Lê Lợi, được nhà vua dùng vào việc thảo văn thư chế cảo. Ông đến với nghĩa quân Lam Sơn sau Nguyễn Trãi ít lâu và nhanh chóng trở thành một cộng sự rất ăn ý với Nguyễn Trãi. Mối thâm giao, sự đồng cảm còn được thể hiện trong những câu thơ Lý Tử Tấn đề tặng Ức Trai:

Tâm kính tương phùng khải ngẫu nhiên.
Biệt khai thành thị nhất lâm tuyền.
(Đề Ức Trai bích)

Tạm dịch:

Có tầm lòng trong sáng như gương mới gặp được chốn này, đâu phải ngẫu nhiên,
Ông mở riêng ở đây một cảnh lâm tuyền giữa nơi thành thị.
(Thơ đề lên vách nhà ông Ức Trai)

Lý Tử Tấn được vua Lê Thái Tông giao cho viết, thông luận sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thông luận sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Những chỗ ghi: "Lý Thị nói" là do ông viết, đây là những chú giải cần thiết, giúp người đọc hiểu thêm giá trị nhiều mặt của một công trình khảo cứu công phu.

Cùng với các học giả nổi tiếng đương thời, Lý Tử Tấn đã hiệu chính, phê điểm, viết bài tựa cho bộ sưu tập thơ Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên(15). Trong bài tựa ông nêu quan điểm sáng tác thơ văn của ông như sau:

"Tôi cho rằng: phép làm thơ thật khó lắm thay! Thơ luật chỉ có năm mươi sáu chữ, thơ tuyệt cú lại chỉ có hai mươi tám chữ, mà đủ mọi thể cách. Muốn thơ cổ kính, thanh đạm thì lại gần với thô; muốn đẹp đẽ, phong phú thì lại gần với loè loẹt; hào phóng thì dễ tới chỗ buông thả, thật thà thì dễ tới chỗ quê mùa. Cho nên lời ý giản dị đầy đủ, mạch lạc thông suốt, chất phác mà vẫn nhã, mới lạ mà không trúc trắc, trung hậu nhưng không thô kệch, cao siêu mà vẫn có giọng ôn hoà, đó là những điều rất khó có thể đạt được. Bởi vậy không chỉ hạn chế trong một lẽ và cũng không thể chỉ lấy được ở một thể"(16).

Lời bàn về thơ khá sâu sắc, khiến người đời nay cũng phải suy ngẫm trước quan điểm sáng tác các thể loại của Chuyết Am(17).

Lý Tử Tấn sáng tác rất nhiều thơ, văn. Số thơ còn lại được chép trong:

Việt âm thi tập 30 bài

Tinh tuyển chư gia luật thi(17) 40 bài.

Toàn Việt thi lục(18) 73 bài, kể cả bài thơ trường thiên Pháp Vân cổ tự bi ký (Bài ký ghi về ngôi chùa cổ Pháp Vân) kể chuyện về Man Nương(19).

Hoàng Việt thi tuyển(20) 8 bài.

Trong số những bài thơ chép ở các sách kể trên, không khỏi có những bài nội dung xuất nhập, nhưng chúng đều thật đáng quý. Ngày nay trong kho sách cổ Hán Nôm còn giữ được 73 bài thơ của ông(21).

Khi bình về thơ của tiên sinh, Phan Huy Chú đã đánh giá "Thơ ông chuộng bình dị, phần nhiều mang ý thơ cổ"(22).

Ngoài thơ, ông còn sáng tác nhiều bài phú có giá trị cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhiều bài mang tình cảm yêu nước nồng thắm, vang dội không khí chiến thắng một thời chống giặc cứu nước như: Chí Linh sơn phú, Xương giang phú, Triều tinh phú(23).

Có những bài giàu tấm lòng lo nước thương dân như: Quân chu phú, Hội anh diện phú, Đại bảo phú(24).

Cũng có bài chứa đựng ý tâm sự lánh đời, ý tưởng "thanh khiết", muốn lui về ẩn cư tránh những ràng buộc chốn triều đình như: Điếu dài phú, Tảo mai phú, Trung thu nguyệt phú(25).

Có thể những bài này được viết vào giai đoạn cuối đời ông, khi triều đình nhà Lê đã có những biểu hiện suy thóai, lục đục, tranh giành ngôi thứ.

Khi viết phú ông sử dụng các thể Sở từ, phú lưu thủy; khi làm thơ, ông dùng thể ngũ ngôn cổ phong lẫn thơ luật. Thể tài nào ông vận dụng cũng khá đạt, nhuần nhụy trong ngôn từ, khóang đạt trong hình tượng. Tuy nhiên phú là thể tài khó, các tác giả phú Hán thường muốn trổ hết tài học của mình, trong các bài thường nhiều điển cố, nên hạn chế không ít tính chất sáng tạo của tác giả.

Phú của Chuyết Am còn lại 5 bài trong Hoàng Việt văn tuyển(26), 21 bài trong Quần hiền phú tập(27) mà chúng tôi kể ra sau đây:

1. Chí Linh sơn phú (Phú núi chí Linh)

2. Du Tiên nham phú (Phú dạo chơi núi tiên)

3. Hội Anh điện phú (Phú về điện Hội Anh)

4. Xương Giang phú (Phú sông Xương Giang)

5. Triền Tinh phú (Phú sao Triền Tinh)

6. Hà thanh phú (Phú sông Hoàng Hà trong)

7. Dưỡng chuyết phú (Phú nuôi dưỡng những sự vụng về)

8. Đại bảo phú (Phú đại bảo)

9. Quân chu phú (Phú ví vua như thuyền)

10. Văn Vương hựu phú (Phú Văn Vương)

11. Tứ tải phú (Phú về bốn phương tiện vận tải)

12. Hạ Hiến thiên thánh tiết phú (Phú mừng lễ thọ hiến thiên thánh tiết)

13. Thọ vực phú (Phú về cõi thọ)

14. Dục Nghi phú (Phú tắm sông Nghi)

15. Tịch trần phú (Phú về ngọc trên chiếu)

16. Trung lưu để trụ phú (Phú về cột đá giữa dòng)

17. Quảng cư phú (Phú về chọn nơi ở của bậc quân tử)

18. Hiệt cư phú (Phú về đạo hiệt cư)

19. Điếu đài phú (Phú về đài câu)

20. Tảo mai phú (Phú về cây mai sớm)

21. Trung thu nguyệt phú (Phú trăng đêm trung thu)(28).

Ngoài những bài phú của ông đã được công bố trên sách báo xưa nay, để kết thúc bài viết chúng tôi thích giới thiệu bài Quân chu phú của Chuyết Am để bạn đọc tham khảo.

Phiên âm:

Quân chu phú
Cổ nhân thiện dụ,
Di quyết yến mưu.
Vị quân dân chi tương bảo, Do chu thủy chi tượng tu.
Tất giới cụ dĩ cộng tế, Vô tư mịch dĩ oán thù.
Tý dân tâm chi ái đới, Vô khuynh phú chi thâm ưu.
Thử quân chu chi thứ thí, Sở dĩ vi dụ hậu chi lương đồ dã.
Thị chi dã.
Tài mỹ nhi thể bị, Dụng thực nhi tâm hư.
Hợp dĩ Càn kiện chi đức, Phối dĩ Khôn tái chi tư.
Phí kha hạm dư hoàng chi khoa mỹ.
Khởi hoàng long thanh tước chi xưng kỳ.
Duy nhân nghĩa kỳ nguy đà
Diệc lễ nhượng kỳ ly duy
Lồ chi dĩ Văn Võ thánh thần chi quảng vận
Đinh chi dĩ bình khang chính trực chi thời nghi.
Tế xuyên chi tài; Hoặc tả hoặc hữu
Bật vi chi trực, như dực nhữ vi...
Hà Kiệt Trụ chi bạo đức, Đồ túng dục dĩ hại dân.
Trác chiêu thiệp chi cảnh, Sát vô cô chi nhân
Thất vi quân chi chính đạo, Tùng oán lị vu nhất thân
Chỉ thần nhật chi hạt táng, Cánh Quỳnh đài chi kiến phần
Thi tri: dân tâm chi nham hiểm, hữu thậm ư thủy;
Nhi quân đức chi thịnh tắc tất sử chi thường hoài vu hữu nhân dã...

Dịch nghĩa:

Bài phú ví vua với thuyền(29)
Người xưa quả thật là khéo ví,
Để lại mưu hay cho đời sau.
Rằng vua tôi như thuyền với nước,
Phải giữ gìn bảo vệ lẫn nhau.
Cẩn thận giúp nhau tới bờ tới bến,
Chớ ghìm nhau để chuốc oán cừu
Phải khiến cho lòng dân yêu kính,
Thì không lo nghiêng đổ sập nhào.
"Vua như thuyền" trong câu ví đó,
Cốt để mưu hay giúp cháu con đời sau vậy!
Thuyền này: Chất liệu tốt đẹp, hình thể vẹn toàn.
Trong lòng khiêm hư, tác dụng đầy đủ.
Hợp với đức mạnh mẽ của trời,
Sánh cùng nết chở che của đất.
Chẳng khoe mẽ đẹp như thuyền to tầu lớn
Há phô vẻ kỳ tựa thanh tước, hoàng long(29)
Nhân nghĩa là bánh lái cột buồm,
Lễ nhượng là giây leo, rợ buộc.
Chèo bằng tài thánh thần văn võ.
Neo bằng đức chính trực bình khang.
Kẻ tả kẻ hữu, giúp đỡ vượt sông.
Người phù người trì, sửa cong uốn thẳng...
Kiệt Trụ sao mà bạo ngược vậy?(30)
Buông tuồng lòng dục mà hại dân,
Tàn sát biết bao người vô tội,
Ai lội sông sớm đều chặt chân,
Trái đạo đúng đắn của quân vương.
Chuốc lấy oán thù trông một thân,
Dân chỉ mặt trời mà nguyền rủa,
Nên bị thiêu cháy cùng đài Quỳnh.
Thế mới biết lòng dân nguy còn hơn cả nước.
Nhưng nếu nhà vua đức tốt thì ắt sẽ khiến dân luôn nhớ tới bậc có nhân(31).

TB

ĐIỆN THÁI VI CỦA VUA TRẦN QUA
VĂN BIA VÀ CÂU ĐỐI TRONG ĐIỆN

HỒNG CẨM

Điện Thái Vi ở động Vũ Lâm, thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Hà Nam Ninh. Động nằm trong hệ thống núi đá vôi Trường Yên ở về phía tây thôn Văn Lâm. Người địa phương gọi là "động", nhưng thực ra đây là một thung lũng đẹp, có địa thế phòng ngự lý tưởng. Ba phía tây, nam, bắc đều có núi đá bao bọc, phía đông có sông Ngô Đồng uốn lượn, tạo nên một hào lũy tự nhiên.

Khu vực chính của điện là một khoảnh đất rộng khoảng sáu sào, xung quanh có bờ đất thấp, phía ngoài còn hai hàng bia đã mờ hết chữ. Trong bờ thành có hai giếng đất mà theo tương truyền là đôi mắt rồng, nước không bao giờ vơi cạn. Phía trái có một gác chuông, phía phải là nhà tổ đã đổ nát. Điện Thái Vi nằm chính giữa. Nơi đây thờ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Hiếu từ Hoàng Thái Hậu. Hiện nay mái điện sụt lở, các hoành phi câu đối hầu hết đều hư hỏng, chỉ còn năm đôi câu đối nguyên vẹn. Trước, sau, hai bên điện đều có bia nhưng đã bị mưa gió thời gian bào mòn, chỉ còn ba tấm bia là có thể đọc được.

Bia thứ nhất gồm hai mặt. Mặt sau ghi công đức. Mặt trước có tên là "Tu tạo Thái Vi cung thần từ thạch bi" (Bia ghi việc tu tạo điện Thái Vi) làm vào ngày 10 tháng 3 năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 10 (1715). Bia có lời minh như sau:

"Điện báu Thái Vi. Lưu truyền cổ tích, Thánh tổ triều Trần, Trải đời tu chữa. Trợ phụ vận nước, Yên giúp muôn dân (...). Năm phúc theo về. Để cho vạn đại, Ức năm dài rộng. Phúc giữ đời sau. Cháu con thịnh vượng" (Thái Vi điện báu, Cổ tích lưu thông, Trần triều thánh tổ, Lịch đại tu sùng, Khuông phù quốc thế, Bảo hữu dân trưng (...). Ngũ phúc lai tòng, Dĩ di vạn đại, Ức tải niên hồng, Khánh lưu miên duệ, Tôn tử hưng long).

Trong bia nói đến việc sửa chữa điện:

"Vào tháng tám mùa thu năm Giáp Ngọ, dân hai giáp Trung và Cật của xã Ô Lâm(1) vì thấy điện quí nguy nga của triều trước nay đã đổ nát hư hỏng bèn dốc lòng cùng nhau sửa chữa (...). Ở điện chính tăng thêm một bậc, dưới dùng cột lim, trên che ngói ống, bốn bên xây tường đá biếc, để cung kính phụng thờ muôn năm. Công danh phúc lộc thêm nhiều như núi, văn nhân tài trí đông đầy tựa rừng, truyền đến vạn đời cho con cháu".

Bia thứ hai cũng hai mặt. Mặt sau ghi công đức và mặt trước có tên là "Tu tạo Thái Vi cung điện thần từ thạch bi". Bia này được làm cùng năm với bia trên nhưng vào tháng 9. Cũng như bia trước, bia này ca ngợi bậc thánh vương. Bài minh có những đoạn:

"Trời mở cảnh ngọc, Đất ứng Côn Luân, Hoàng đế triều Trần, Trấn ngự trung tôn (...), Dân cần quốc đảo, Ứng báo lời hay (...) Thờ phụng sớm hôm, Phúc dành hai giáp, Hưng thịnh cháu con. Cung điện Thái Vi, Hợp cùng trời đất. Mây rồng hội hợp, Bia mãi mãi còn".

Cả hai tấm bia trên đều dựng sau điện do dân làng cùng quan viên hương trưởng hai giáp Trung, Cật xã Ô Lâm, huyện An Khang, phủ Trường An thuê khắc.

Phía dưới điện còn tấm bia bốn mặt, trong đó ba mặt ghi công đức và mặt thứ tư có tên "Tu lý Thái Vi điện bi ký". Đây là một bài ký nói rõ về địa điểm thời điểm dựng điện lần đầu cùng niên đại của những lần sửa chữa sau.

Trước đây "Đền ở xã Văn Lâm tên gọi Thái Vi, nơi đó là đất của các bậc tiên hoàng đế triều Trần đi tu, được xây dựng từ khoảng năm Bảo Phù nhà Trần (1273-1278).

Điện đã trải qua bốn lần sửa chữa:

- Năm Kỷ Sửu niên hiệu Quang Hưng (1589).

- Năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh (1715).

- Năm Quí Tỵ niên hiệu Thành Thái (1833).

- Năm Bính Dần niên hiệu Bảo Đại (1926).

Nếu căn cứ vào nội dung tấm bia dựng vào lần sửa chữa cuối cùng này thì hai tấm bia trên được dựng vào lần sửa chữa thứ hai của điện. Lần sửa chữa cuối cùng này được khởi công từ tháng 6 năm 1925, đến tháng 2 năm 1926 hoàn tất. Qui mô sửa chữa được ghi như sau:

"Đền thờ tăng cao lên một bậc, nhà làm nên ba tòa. Tòa đầu rộng năm gian, tòa sau rộng ba gian, tòa thứ ba rộng năm gian. Tất cả đều dùng: xà bằng gỗ lim, cột bằng đá chạm, mái lợp ngói quí, xung quanh xây tường, ngoài xây năm cửa. Hết thảy đều chạm trổ tinh vi đẹp đẽ".

Điện Thái Vi tu tạo lần này quả là đồ sộ so với buổi đầu khi nó chỉ là am tu hành: "Trong ba gian quay về hướng nam tụng niệm, ngoài ba gian thờ tam thanh thượng đế"(2).

Điện Thái Vi hiện nay còn một số câu đối. Chúng tôi xin trích ba đôi câu đối nói lên niềm tự hào của người dân đất Văn Lâm trước sông núi quê hương mình:

“Nam hải thánh thần tây thổ Phật:
Văn Lâm sơn thủy Thái vi từ.”
(Thánh thần vùng Nam hải có đức Phật tây thổ.
Sông núi đất Văn Lâm ta dựng đền Thái Vi).

Và lịch sử nước nhà gắn với những địa danh yêu quý:

Thiên khải thánh minh Lê tiền Lý hậu:
Địa chung thân tú Cối lĩnh Ngô giang.
(Trời mở thánh minh Lê trước Lý sau:
Đất thần hun đúc Sông Ngô, núi Cối).

Đặc biệt là ở đôi câu đối thứ ba, người đọc phần nào thấy được không khí sinh hoạt tại điện Thái Vi thuở ấy:

“Thống nhất sơn hà Thiên Trường phù vương hầu đệ trạch;
Thiên thu hương hỏa Thái Vi cung văn vũ y quan.”
(Nước non một mối các vương hầu dựng phủ đệ ở phủ Thiên Trường;
Hương khói nghìn thu mũ áo quan văn quan vũ ở cung Thái Vi(3).

Phải chăng điện Thái Vi trước đây từng là nơi hội họp bàn các việc cơ mật của vua tôi nhà Trần, những quyết định tối hậu trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất? Theo Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ thì "Thái Tông là người mến cảnh sơn lâm, ham mê đạo Phật, nhưng chí khí khóang đạt sâu xa". Người đã nhường ngôi báu để về với rừng thiền, nhưng cũng sẵn sàng âu lo toan tính khi Tổ quốc lâm nguy".

Ngoài ra, dưới chân núi Cửa Quyên trên đường đi vào điện có một tấm bia đề là: "Tu lý thạch lộ bi" (Bia ghi việc tu sửa con đường lát đá). Mặt bia đã bị nước ăn rỗ hầu hết, nhưng nội dung vẫn có thể biết được đại lược là: Bia làm vào ngày tốt tháng một năm Hoằng Định thứ năm (1605), sau khi sửa chữa con đường này một năm (nghĩa là con đường này có từ trước và đến năm 1604 được sửa chữa lại). Bia do ông Đinh Văn Miên tự là Mại Am viết. Sau khi ca ngợi vẻ đẹp của vùng này, từ đồng ruộng, núi non, khí hậu đến con người... ông nêu ra lý do chữa đường là để thuận việc đi vào điện và tiện việc thăm nom ruộng đồng.

Như vậy điện Thái Vi dưới con mắt của chúng ta ngày nay thực sự là một di tích đáng quí. Nơi đó đã trải qua nhiều lần sửa chữa, đến nay bia đá vẫn còn ghi. Hơn thế nữa, tấm bia chữa đường ghi việc sửa con đường đi vào viện với lý do bình dị khiến chúng ta thêm trân trọng. Con đường này, theo cuốn Hoa Lư của Nguyễn Thạch Giang thì đầu tiên là do Trần Thái Tông cho mở(4).

Trên đây là một số nét về quang cảnh hiện tại và lịch sử của điện Thái Vi. Nơi ấy đã hơn một lần vua Trần Thái Tông đi tu rồi dùng luôn làm nơi hội họp bàn các việc cơ mật của đất nước. Nơi mà ở con người Trần Thái Tông có hai bậc hiền tài đã bổ sung và hỗ trợ cho nhau: Vị Hoàng đế triết gia có tâm hồn thi sĩ và vị Tướng quân có đại lược hùng tài !

CHÚ THÍCH

(1) Ô Lâm: xưa kia nơi đây là rừng cây um tùm nhiều quạ đến làm tổ, nên gọi là Ô Lâm (Rừng quạ). Sau đổi là Văn Lâm.

(2) Dẫn theo Hoa Lư của Nguyễn Thạch Giang, tr.68.

(3) Ba câu đối trên được các tác giả viết vào năm 1962, là năm trùng tu Điện Thái Vi lần cuối.

(4) Hoa Lư, Sách đã dẫn, tr.70./.

TB

VỀ BẢN DỊCH VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ CỦA TRẦN VĂN GIÁP

ĐINH CÔNG VĨ
LÊ VIỆT NGA

Cho đến nay, đã có mấy bản dịch Vân đài loại ngữ được công bố(1), trong đó, bản dịch của Trần Văn Giáp được lưu hành phổ biến hơn cả. Gần 30 năm nay, bản dịch này đã có đóng góp lớn trong việc truyền đạt những giá trị nhiều mặt trong tác phẩm ưu tú của Lê Quý Đôn. Tuy nhiên, để bản dịch được hoàn thiện hơn, cũng cần duyệt xét lại từ các mặt giám định văn bản và dịch thuật của nó. Thời gian gần đây, ở nước ngoài đã có người nghiên cứu Vân đài loại ngữ, khảo sát lại bản dịch của Trần Văn Giáp và đã phát hiện một số vấn đề có ý nghĩa khoa học(2). Bài viết này nêu một số vấn đề tồn tại của bản dịch, nhằm kịp thời đính chính một số chỗ dịch chưa ổn, góp phần chỉnh lý bộ sách quí này.

Cần lưu ý là, hiện nay, theo chúng tôi được biết, có tới 9 bản Vân Đài loại ngữ(3). Trong khi đó dịch tác phẩm này, nhà thư tịch học Trần Văn Giáp chỉ có 1 bản trong tay và mượn thêm được 1 bản. Mặt khác, vì thời gian eo hẹp, dịch giả thừa nhận rằng mình chỉ có thể "hiệu thù qua loa"(4). Từ đó có thể thấy rằng: Bên cạnh thành công lớn, bản dịch không thể tồn tại những sai lầm, thiếu sót ở mức độ khác nhau. Dưới đây chúng tôi xin nêu thành 5 điểm để xem xét:

1, Về niên đại, triều đại: Đây có thể là do đọc nhầm những tiếng có âm na ná giống nhau như âm "quảng" đọc thành "quang", bỏ dấu hỏi, không bám sát bản chứ Hán: "Chu Thái Tổ Quảng Thuận nhị niên" (mục IV điều 96), rồi chú năm Dương lịch theo năm Quang Thuận đời Lê Thánh Tông (khoảng năm 1461-1462). Người dịch đã đem đời Chu Thái Tổ khoảng năm 952, cuối đời Ngũ đại thập quốc, sát đời Tống ở Trung Quốc đặt vào thời Lê Thánh Tông ở Việt Nam, một giai đoạn tương đương với nhà Minh ở Trung Quốc.

Đây có thể còn do nhìn nhầm những chữ có nét bút gần giống nhau, tên họ người trở thành tên triều đại, như: Ở bản Hán ghi "Tống Bạch - Thái Kham" (mục II, điều 19), người dịch nhìn nhầm chữ "Thái" ra chữ "Quì" nên đã đưa hai người là Tống Bạch và Thái Kham thành một người là Bạch Quí Kham đời Tống.

Cũng có thể do chưa chú ý đến văn cảnh, như câu: "Lưu Định chi tạp chí" (mục II điều 17), người dịch viết: "Tạp thuyết của Lưu Định Chi nhà Hán". Đoạn dưới còn ghi chuyện: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trái Tạng pháp sư tranh luận, việc này được tạp chí của Lưu Định Chi thuật lại. Chả lẽ Lưu Định Chi đời Hán xa xôi lại biết mà ghi cả việc tranh luận của đời Tống về sau hay sao? Có tra Trung Quốc Nhân danh đại từ điển(5) mới biết: Lưu Định Chi là người đời Minh sau đời Tống và đời Nguyên.

2, Về nhân danh: Sai sót do ấn tượng về tên người mà sinh ra, như khi nói tới các nhân vật Trung Quốc thấy ai thuộc họ Vương An thì quen cho là Vương An Thạch. Hơn nữa ở bản chữ Hán cũng có chỗ sao chép sai là: "Vương An Thạch tự chấp chính xuất Từ Châu". Ấn tượng đó làm người dịch càng tin rằng bản chữ Hán chép đúng. Thực ra Vương An Thạch là Tể tướng đời Tống Thần Tông, phần lớn thời gian là ở Biện Kinh, Kinh đô nhà Bắc Tống, ít khi ra làm quan ở địa phương như Từ Châu. Theo Nhân danh đại từ điển, người "chấp chính xuất Từ Châu" đây là Vương An Lễ.

Có khi do diễn đạt và sử dụng từ chưa chính xác nên đã đem tên của người sáng tác ra văn bản này cắm vào văn bản của người khác. Như câu: "Chử Uyên bi" đã dịch là "văn bia của Chử Uyên". Thực ra nên dịch là "Văn bia viết về Chử Uyên" (do Vương Kiện soạn) (mục VII điều 66).

Có khi do người dịch không nhìn kỹ chữ trong văn cảnh nên nhầm tên người Trung 中 là danh từ riêng ra động từ "trúng" là đỗ, danh từ họ Dư 余 thành đại từ "ta", như ở mục IV điều 76 vốn là: "Năm Hy Ninh (1068-1078) ông Dư Trung 余 中 đỗ Trạng nguyên", người dịch lại dịch là: "Ta đỗ Trạng nguyên năm Hy Ninh".

Còn có những sai sót nữa do in sai tên người như Ban Cố thành Bàn Cổ (ở chú mục II điều 2), Trình Mạc thành Trình Mịch (ở mục VI điều 16), hay do dịch nhầm âm: Trịnh Dư Khánh thành Trịnh Dư Khương (ở mục VI điều 97); do nét chữ chỉ thêm bớt gần giống nhau mà dễ dịch nhầm: Tấn Vệ phu nhân thành Tấn Vệ đại phu (ở mục VI điều 98), do hiểu lầm chữ như: chữ "tăng" là nhà sư thành họ "Tăng": Nhà sư tên là Liễu Nhiên thành ông Tăng Liễu Nhiên (mục I điều 38).

3, Về địa danh: Do chưa xét rõ lịch sử địa danh Việt Nam nước ta trong mối tương quan với lịch sử địa danh Trung Quốc, dẫn tới "râu ông nọ cắm cằm bà kia". Chẳng hạn: Nói về vải ở Mân Quảng, bản chữ Hán, mục IX điều 112 ghi: "Tự Nhật Nam Man chức vi bổ", người dịch cứ theo đó mà dịch là: "Người Mân ở Nhật Nam dệt vải", không xét rõ chữ nhật 日 là do chữ hải 海 viết nhầm mà thành. Hải Nam cũng như Mân Quảng, thuộc địa phận Trung Quốc, chứ không thể là Nhật Nam trong khu vực các tỉnh miền Trung nước ta.

Ở mục IX điều 118, do không xem kỹ văn cảnh cả đoạn và sự liên quan với câu dưới nên người dịch cho rằng: "Ai Lao" là nước Lào. Thực ra "Ai Lao" ở trong câu này chính là một bộ lạc ở Vân Nam, Trung Quốc. Vì ở điều 119 sát dưới có ghi: Cuối đời Hán Quang Vũ, nước Lào nội thuộc nhà Hán, nhà Hán mới đặt ra quận Vĩnh Xương để cai trị. Nước Lào phía Tây giáp Đại Tần, phía Nam thông với Giao Chỉ. Giao Chỉ là nước ta. Vì thế, nó không thể là nước Lào ngày nay. Có khi lầm lẫn địa danh phiên âm như: Ở mục II điều 52 nguyên bản ghi là Bôn lãng đà (phiên âm tên địa danh: Phan Rang từ Panduranga đất mới khai thác từ đời các chúa Nguyễn), người dịch dịch là: Kéo thẳng sang Lãng Đà.

Có khi lầm địa danh là danh từ riêng thành danh từ chung: Ở mục I điều 41 đáng lẽ dịch là: Xem bói ở chợ Thành Đô, dịch giả lại dịch: Xem bói ở chợ Đô thị. Thực ra đây chính là Thành đô, thủ phủ ở miền Tứ xuyên thuộc phía Nam Trung Quốc.

4, Về tên sách:

Sơ suất này một phần là do chưa tra cứu đầy đủ thư tịch cũ hoặc do lầm lẫn về nét chữ tạo nên.

Chẳng hạn: Ở mục VII, điều 50 có ghi: "Tô lâm ký viết". Người dịch cho ba chữ "Tô lâm ký" là tên sách. Thực ra tên sách chỉ gồm hai chữ "Tô lâm", còn "ký" là "ghi": "Sách Tô lâm ghi rằng".

Ngược lại, ở mục I điều 39, đáng lí phải dịch là: "sách Giáp ất thặng ngôn", người dịch lại dịch là: "Sách Giáp ất thặng nói rằng"...

Có khi hiểu sai âm chữ, dẫn đến hiểu sai nghĩa chữ và dịch sai tên sách, như ở mục II điều 16: Chữ "duyệt", một bộ phận của tên sách lại đọc là "thuyết" Nam cung duyệt dịch là "Sách Nam cung... nói". Các trường hợp sai tên sách còn nhiều như:

Ở mục VI, điều 49 Duẩn phả dịch sai là Đản ký.

Ở mục VI, điều 57 Thuyết văn dịch sai là Lại có thuyết.

Ở mục VI, điều 64 Hoa nghiêm âm dịch sai là Hoa nghiêm biểu.

Ở mục VI, điều 65 Tây khê tùng ngữ dịch sai là Tây khê toát ngữ.

Ở mục I điều 33 Tiếu đạo luận dịch sai là Thiên đạo luận.

Còn dịch sót tên sách, ở bản dịch cũng không ít như:

Ở mục VI, điều 23 Tiềm xác cư loại thư, chỉ dịch Tiềm xác thư.

Ở mục VI, điều 27 Thông giám kỷ chỉ dịch Thông giám.

Ở mục VI, điều 39 Đông quan tấu ký chỉ dịch Đông quan ký.

Ở mục VI, điều 40 Hán thư Ngoại thích truyện chỉ dịch Hán Ngoại thích truyện.

Ở mục VI, điều 48 Nhan thị gia huấn dịch là Gia huấn.

Ở mục VI, điều 58 Khang Hi tự điển dịch là Tự điển.

Ở mục VII, điều 9 Dịch thông quái nghiệm dịch là Thông quái nghiệm.

Ở mục VII, điều 48 Quảng bác vật chí dịch là Bác vật chí.

Bản dịch còn có những trường hợp gộp lại hoặc tách ra những tên sách, không đúng, như: Ở mục VII điều 32 ghi: Thuyết uyển Tân tự, người dịch cho cả bốn chữ đó là một tên sách. Thực ra: Thuyết uyển Tân tự là hai sách khác nhau. Ngược lại: Ở mục VII điều 35 ghi: Hàn thi ngoại truyện là tên một sách, người dịch lại tách thành hai sách: Hàn thi Ngoại truyện.

5, Về việc chú thích:

Đây là việc làm cần thiết để khỏi lẫn lộn. Ở mục IX, điều 161 bản chữ Hán ghi: "Tại Thái Bình lục thập tiên vị chi Đà lê kiếm" (ở Thái Bình có lúa 60 ngày gặt được gọi là Đà lê kiếm). Ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc có châu Thái Bình, ở Việt Nam cũng có tỉnh Thái Bình, người dịch không chú rõ Thái Bình này thuộc về Trung Quốc hay Việt Nam, nên làm cho người đọc phân vân.

Có khi trên đã chú rồi, nhưng dưới lại chú, như ở mục II, điều 15, cái tên sách: Thượng thư vĩ khảo linh diệu, đã chú là: "một thiên trong Thượng thư vĩ do Trịnh Huyền chú giải". Ở đoạn văn khác bên dưới cũng thuộc điều 15 người dịch lại chú: " Linh diệu là tên vùng trời", không những trùng lặp, mà nội dung chú thích cũng không thống nhất với trên.

Điều cần thiết ở một bản dịch là phải có một lượng chú thích hợp lí. Ở mục "Âm tự" trong bộ bách khoa. Lê Quí Đôn cung cấp cho chúng ta hàng loạt tiếng địa phương xa xưa ở Nam Trung Quốc và Việt Nam. Vì bản dịch ít chú thích quá nên nội dung phần dịch đã xa xưa, càng xa lạ với người đọc. Độc giả Việt Nam nay ở xa Lê Quí Đôn mấy trăm năm thật khó mà hiểu nổi các thổ ngữ địa phương Trung Quốc ở các vùng heo hút kia, nếu người dịch không giải nghĩa. Đáng lưu ý là: Đối tượng đọc Vân đài loại ngữ không chỉ là các nhà Ngôn ngữ học, Âm vận học, Hán Nôm học, mà còn thuộc nhiều tầng lớp khác, nếu những thuật ngữ như "chắc đa phiên", "đồ hà phiên"... mà ở bản dịch không có chú thích, thì làm sao người đọc hiểu được.

Để chú thích, bản dịch đã dựa vào nhiều sách công cụ Trung Quốc. Song có những vấn đề mới, đặc biệt là những vấn đề của phương Tây, khi ấy người phát kiến mới về khoa học tự nhiên mà Lê Quí Đôn bước đầu có thể tiếp xúc, còn mới lại với Trung Quốc và Việt Nam, mà chỉ dựa vào loại sách công cụ của Trung Quốc thì chưa đủ. Cho nên người dịch ngoài Từ nguyên, Từ hải, Nhân danh đại tự điển, Bội văn vận phú, Uyên giám loại hàm, còn phải tìm hiểu Kiên biều tập, Lịch pháp tây truyền, Khôn dư đồ thuyết... nữa, nếu không sẽ khó tránh khỏi thiếu sót như: Ở mục II, điều 12 nói tới Nam Hoài Nhân và sách Khôn dư đồ thuyết có phần bàn về quả đất tròn rất ảnh hưởng tới Lê Quí Đôn nhưng người dịch lại bỏ, không chú ở dưới. Đó cũng là một thiếu sót cần bổ sung.

CHÚ THÍCH

(1) Có thể kể: 1 - Bản của Trần Văn Giáp xuất bản ở Hà Nội năm 1962; 2 - Bản của Tạ Quang Phát xuất bản ở Sài Gòn năm 1972-1973; 3 - Bản của Phạm Vũ - Lê Hiển xuất bản ở Sài Gòn năm 1973.

(2) Xem: 1. Cahiers d'études Vietnamiennes No5, 1981-1982 (Extrait de la page 3-9), Introduction par Tạ Trọng Hiệp. 2.Tạ Ngọc Hiệp: Góp phần nghiên cứu Lê Quí Đôn, khảo đính văn bản Vân đài loại ngữ và các bản dịch. 1. Đọc chương Phẩm vật. Tập san KHXH, 1978, No5, tr.63-80, No 6, tr.39-54.

(3) Sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm; 9 bản đó là: A.1285; A.141; VHv.2431/1-3; VHv.1169/1-4; VHv.1807; VHv.1809; VHv.1809/1-2; A.1338 và VHv.1483.

(4) Thúc Ngọc Trần Văn Giáp, Vân đài loại ngữ tập 1, Lời nói đầu, tờ 5, dòng 16, Nxb. Văn hóa, H. 1962.

(5) Thương vụ ấn thư quán Thượng Hải xuất bản, in lần thứ 3, năm 1933.

TB

"THU THANH" HAY "THUNG THANH"

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Ở đền Trần Hưng Đạo, tại số 36 đường Võ Thị Sáu, thành phố Hồ Chí Minh, trước điện có hai câu đối bằng chữ Hán:

“Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.”

Hai câu đối này là chép lại hai câu đối đã được nhận ở cổng đền Kiếp Bạc (huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng), do Vũ Phạm Hàm(1) cung đề và có nghĩa là:

Núi Vạn Kiếp chỗ nào cũng có hơi kiếm (bốc tỏa lên).

Sông Lục Đầu không có sóng nào là không có tiếng thu (gầm thét vang).

Đôi câu đối ấy trải qua bao năm tháng, từ thời còn các nhà nho, mà sao không thấy ai nói là chép sai để sửa lại.

Người ta vẫn cứ ca tụng cái ý nghĩa "kiếm khí hoành thu" của đôi câu đối ấy.

Theo ông Hoàng Thúc Trâm, trong quyển Trần Hưng Đạo(2), thì vào khoảng năm 1945, một nhà báo Nhật Bản qua Việt Nam, có đến thăm đền Kiếp Bạc, nhân đọc đôi câu đối ở trước cửa đền, tả núi Vạn Kiếp đầy kiếm khí và nước Lục Đầu vang tiếng thu, đã cảm xúc viết ra một bài thơ bằng chữ Hán như sau để tỏ ý ngưỡng mộ Trần Hưng Đạo:

“Thanh kỳ biệt hữu thử giang san,
Sản xuất anh hùng biểu thế gian.
Kiếm khí do kinh Hồ lỗ phách,
Thu thanh túc sái thủy sàn sàn(3)”

Dịch nghĩa:

Ở đây, riêng có cảnh núi sông thanh kỳ này, chung đúc nên trang anh hùng làm tiêu biểu cho thế gian.

Hơi thanh kiếm [của ngài] đủ làm cho giặc Mông Cổ phải kinh hồn mất vía.

Tiếng mùa thu vi vút lạnh lùng, nước (Lục Đầu) ào ào dào dạt.

Bài thơ trên rõ ràng đã bị ảnh hưởng bởi câu đối với hai chữ "kiếm khí" và "thu thanh" mà mọi người đã quen đọc.

Cụ Giản Chi, trong một buổi nói chuyện với chúng tôi, đã cho rằng chữ "thu" là sai. Phải viết là "thung thanh" mới đúng.

Có thể người sao viết lại đôi câu đối ấy của Vũ Phạm Hàm đã nghe lộn chữ "thung" ra chữ "thu" và đã chép sai như vậy.

Thế rồi, vì chữ "thu thanh" nghe cũng có nghĩa nên mọi người cũng không ai để ý đến nữa. Theo chúng tôi nghĩ thì hai chữ "thung thanh" đúng hơn hai chữ "thu thanh" vì:

- Nếu là "thu thanh" thì sông nào chẳng có "tiếng thu" khi gặp gió lớn sóng to.

- Nếu là "thung thanh" thì chỉ có sông Bạch Đằng (Lục Đầu) mới có tiếng đóng cọc mà thôi. Hai chữ "thung thanh" mới gợi lại chuyện Ngô Quyền và Trần Hưng Đạo xưa kia đã dùng mưu cho đóng cọc trên sông Bạch Đằng để phá quân Nam Hán (939) và quân Nguyên (1288) mà tiếng sóng vang reo ngày nay còn tưởng như có tiếng đóng cọc ầm ầm trên khắp dòng sông.

Hai chữ "thung thanh" đã được tìm thấy trong bài văn tế bằng chữ Hán vẫn thường đọc ở các đền thờ Trần Hưng Đạo, ngày 20 tháng 8 Âm lịch mỗi năm:

Sinh tiền bất hủ chi tâm, giang thung thu ngật,
Tủ Hậu lẫm như chi khí, hạp kiếm lôi minh.

Dịch nghĩa:

Khi còn sống, trái tim bất hủ, cọc giữa dòng sừng sững dưới trời thu.
Lúc mất rồi, lẫm liệt khí thiêng, kiếm trong tráp khua vang như sấm dậy.

Hai chữ "thung thanh" ấy lại được tìm thấy trong một đôi câu đối khác của ông Nguyễn Văn Bình, cử nhân:

Đằng Giang vi nhị thứ chi chiến thắng trường tang hải bất vi thung thực tích,

Vận Lĩnh thị thiên thu chi linh ứng địa, phong lôi trường hưởng kiếm minh thanh.

Dịch nghĩa:

Đằng Giang là nơi hai lần chiến thắng, cuộc tang hải không làm mất được dấu vết của những chiếc cọc,

Vạn Lĩnh là đất nghìn thu linh ứng, gió và sấm còn vang dài mãi tiếng gươm.

Qua hai câu dẫn chứng thêm ở trên, chúng tôi nhận thấy chữ "thung" có nhiều ý nghĩa lịch sử hơn là chữ "thu". Nó nhắc lại cả một giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc trong việc chống ngoại xâm. Hơn nữa, chữ "kiếm" đối với chữ "thung" chỉnh hơn là với chữ "thu", vì "kiếm" và "thung" đều là vật "cụ thể" còn "thu" chỉ là "trừu tượng" mà thôi.

Qua các lý lẽ nêu trên, chúng tôi đề nghị nên sửa lại đôi câu đối ấy cho đúng nghĩa hơn. Ngoài ra về âm đọc của chữ "thung" chúng tôi cũng đề nghị nên đọc là "chang" cho đúng. Chữ "thung" có hai âm:

- Nếu đọc là "thung" thì nó có nghĩa là đánh đập,

- Nếu đọc là "chang" thì có có nghĩa là cái cọc.

Như vậy hai câu đối của Vũ Phạm Hàm phải đọc là:

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí.
Lục Đầu vô thủy bất chang thanh.

CHÚ THÍCH

(1) Vũ Phạm Hàm (1864-1906): người làng Đông Thư, huyện Thanh Oai, Hà Đông (Hà Sơn Bình), đậu Thám hoa, nên thường gọi là ông Thám Hàm, làm Đốc học Hà Nội.

(2) Hoàng Thúc Trâm: Trần Hưng Đạo - Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn 1950, tr.123.

(3) Ông Hoàng Thúc Trâm đã thuật lại theo quyển Hưng Đạo Đại vương, của ông Lam Sơn, trang 11, và có ghi thêm ở phần chú thích: "Với tất cả mọi sự dè dặt...".

TB

LỐI ĐÁNH DẤU CÁ TRONG CHỮ NÔM

NGUYỄN TÁ NHÍ

Một trong những phương thức cấu tạo chữ Nôm khá thông dụng là dùng dấu cá (hoặc dấu nháy)(1) ghi thêm vào chữ Hán để tạo ra chữ Nôm có âm đọc gần giống với âm đọc Hán Việt của chữ Hán đó. Ví dụ:

[lễ + cá](2): lẽ

[mỹ + nháy]: mẽ

Dấu cá mách bảo người đọc phải tìm âm đọc khác, không được trùng lặp với âm đọc Hán Việt của chữ Hán đó, nghĩa là có tác dụng điều chỉnh lại âm đọc. Muốn phát huy được tác dụng này, bản thân dấu cá phải có được những nét cấu tạo riêng biệt. Nếu tuỳ tiện sử dụng bất kỳ bộ thủ nào của chữ Hán thì phạm vi xác định âm đọc của chữ sẽ bị giới hạn. Người đọc sẽ lệ thuộc vào bộ thủ chỉ nghĩa, rất có thể dẫn đến mất phương hướng trong việc xác định âm đọc. Do vậy dấu cá phải ký hiệu mà chữ Hán không dùng làm bộ thủ chỉ nghĩa trong việc tạo ra chữ mới. Mặt khác, xem xét cách viết chữ Hán, thường thấy viết theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, nét bút viết sau cùng thường ở bên phải phía dưới. Dấu cá là ký hiệu viết thêm vào sau khi đã viết xong chữ Hán, nên nó thường có vị trí ở bên phải của chữ. Như thế vừa là thuận nét bút, vừa có thể giữ được thế cân đối hài hoà trong cấu trúc khối chữ vuông.

Có thể là trước khi sử dụng dấu cá, hoặc đồng thời với việc sử dụng dấu cá, người ta đã dùng các dấu chỉnh âm khác, song do đặc điểm cấu tạo không thích hợp, nên sức sống của nó không bền vững. Về vấn đề này chúng tôi sẽ bàn kỹ ở một dịp khác, ở đây chỉ xin đề cập đến hai loại thông dụng nhất là dấu cá và dấu nháy. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát một loạt văn bản Nôm, kể cả bản in và bản chép tay, bước đầu rút ra nhận xét: Dấu cá thường được sử dụng trong các sách in và bia đá từ khoảng giữa thế kỷ 19 trở về trước, cá biệt có một số sách in đời Lê vừa dùng dấu cá vừa dùng dấu nháy. Còn dấu nháy thường được sử dụng trong các sách in và bia đá từ nửa cuối thế kỷ XIX trở về sau và các sách chép tay. Cũng có một số bản Nôm chép tay có dấu cá, điều này cho phép chúng ta đoán định rằng các bản Nôm này được sao chép từ những văn bản Càn nguyên ngự chế thi, ký hiệu A.1319; Lê Triều ngự chế Quốc âm thi có ký hiệu AB.8(3)

Có ý kiến nhận xét, lối đánh dấu cá là cách đặt chữ Nôm rất tùy tiện, không được khoa học chút nào...(4). Thực ra cũng có trường hợp do ngữ cảnh tương đối dễ xác định âm đọc, nên sự có mặt hay vắng mặt của dấu cá dường như không cần thiết lắm. Còn hầu hết các trường hợp khác dấu cá đã phát huy tác dụng tích cực, nó giúp cho người đọc mau chóng tìm ra âm đọc. Chữ Nôm vốn chưa được quy phạm, người viết chỉ cần tuân thủ theo một số nguyên tắc nhất định rồi tự đặt ra chữ Nôm. Có người viết đến đâu đặt chữ ra đến đấy, vừa nghĩ vừa viết. Do nhu cầu cần phải nhanh chóng đặt ra chữ Nôm để ghi, gặp những chỗ khó tìm được bộ thủ, hoặc không tìm thấy bộ thủ thích hợp, người ta thường sử dụng ngay dấu cá. Nhất là trong những trường hợp ghi từ Thuần Việt, phiên âm tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc ít người. Đại loại dấu cá thường được sử dụng trong một số trường hợp sau:

1. Hai từ đi gần nhau có âm đọc gần giống nhau, thông thường có thể ghi bằng một mã chữ Nôm, ở đây một trong hai chữ đó phải dùng dấu cá để phân biệt.

a, Một từ đọc âm Hán Việt, một từ đọc âm Nôm, mà chữ ghi từ Nôm phải dùng dấu cá. Ví dụ:

- Từ [ma + cá]

+ Thấy một người khỏe lớn tướng lành, đội mũ mâu ma mà lại (Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú A.176)

+ Một chốc mặc áo mâu ma mà có thiên hạ (Tứ thư ước giải AB.270)

Từ trong trường hợp khác có thể viết bằng chữ ma, ở đây cần thiết phải dùng dấu cá để phân biệt với âm ma trong từ mâu ma.

- Từ xe [xa + nháy]

+ Cưỡi xe binh xa thì chẳng cúi xuống (Lễ ký đại toàn diễn nghĩa VHv.112)

+ Xe đức xa cuốn lèo cờ.

Từ xe thông thường được viết luôn bằng chữ xa, ở đây cần thiết phải dùng thêm dấu nháy để tránh lầm lẫn với âm xa trong câu từ binh xa đức xa.

b, Hai từ Nôm có âm đọc gần giống nhau đứng gần nhau, một từ cần ghi bằng chữ Nôm có mang dấu cá. Ví dụ:

- Từ kia [ky] và kìa [ky + cá]

Kìa chim hoàng điểu kia, Kìa chim hoàng điểu kia (Thi kinh giải âm AB.144)

Nếu không đi gần nhau, thì từ kia và từ kìa đều có thể dùng chữ ky để ghi.

- Từ mười [xước + thập]
mươi [xước + thập + nháy]

Kim Kiều ghi tạc chắc mười mươi (Quốc âm văn sao AB.565).

Mười mươi đều là từ Nôm, được ghi bằng chữ đầy đủ là [mại + thập], song trong các văn bản Nôm thường thấy viết giản nét là [xước + thập]. Ở đây hai từ dùng liền nhau, nên cách ghi chữ Nôm bắt buộc phải có sự phân biệt bằng cách ghi thêm dấu nháy vào chỗ ghi từ mươi.

2. Phiên âm tiếng nước ngoài (từ tiếng Hán) hoặc tiếng địa phương, Ví dụ:

- Từ Be sì [bì + nháy, si + nháy]

Be sì cho chóng mà ra, Ma ta bắt được nhà pha tống vào (Nam giao cổ kim lý hạng ca dao chú giải AB.194).

Lục xì cũng là từ phiên âm tiếng Pháp luxe, đây được hiểu như là dâm ô trụy lạc.

- Trong sách Nam kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu - ghi tên một số thôn xã thuộc khu vực đồng bào dân tộc ít người.

Tà đót [Tà, đột + nháy]

Tà núc [Tà, nậu + nháy]

Số TT Chữ viết Âm đọc Âm Hán Việt
1 ấy ý
2 bỏ ba
3 @ bợ bị
4 bói bối
5 @ bương bang
6 @ chăng trang
7 @ cược cục
8 @ chờ trừ
9 @ chỗ lỗ
10 @ chuồng trùng
11 @ dời di
12 @ dịu diệu
13 @ đầm đàm
14 @ đẵng đẳng
15 @ đẫy đãi
16 @ đìa trì
17 @ đùn đồn
18 @ gấm cẩm
19 gắng cắng
20 @ gấp cấp
21 @ gáy
22 gở
23 @ góa quả
24 @ giăng giang
25 @ giử giả
26 @ hèn hiền
27 @ héo hiếu
28 kém kiếm
29 @ kìa ky
30 @ kín cẩn
31 @ lẳm lẫm
32 @ lẵng lãng
33 @ lăn lân
34 @ lấn lận
35 @ lấp lập
36 @ lẫy lễ
37 @ lẻ lễ
38 @ le li
39 @ lìa li
40 @ lồ lữ
41 @ lở lữ
42 @ lóc lộc
43 @ lui lôi
44 @ lượt liệt
45 @ ma
46 @ mái mãi
47 @ mắc mặc
48 @ mến miễn
49 @ mởn miễn
50 @ mệt miệt
51 @ mịt miệt
52 @ mẻ
53 @ mỗ
54 @ mối môi
55 @ muốn muộn
56 @ mượt mạt
57 @ nải nãi
58 @ nưa na
59 @ nom nam
60 @ nem niệm
61 @ ngủ ngọ
62 nguội ngoại
63 nguồn nguyên
64 nhặt nhật
65 @ nhỏ như
66 @ phai phái
67 @ rạc lạc
68 @ rập lập
69 @ rẫy lễ
70 @ rặt luật
71 @ rích lịch
72 riêng trinh
73 @ rữa lữ
74 @ sấm lẫm
75 @ siêng sinh
76 @ tày tề
77 @ tiệc tịch
78 @ tóc tốc
79 @ tói tối
80 @ tin tín
81 @ tuổi tuế
82 @ thà thì
83 @ thảnh thỉnh
84 @ thịch thạch
85 @ thình thành
86 @ thơi thai
87 @ thon thôn
88 @ trỗi lỗi
89 @ trộm lạm
90 @ trọn luận
91 @ trót tốt
92 @ vạch hoạch
93 @ vay vi
94 @ vi
95 @ vi
96 @ vọi vị
97 @ von viên
98 @ vin viên
99 @ vừa
100 @ vút viết

Xom [Xam + nháy]

Thong [Thung + nháy]

3. Một số tên người, tên đất Việt Nam, không thể tìm được từ Hán Việt tương đương để ghi, cũng hay dùng chữ Nôm có mang dấu cá. Ví dụ:

- Tên ngọn núi Nưa ở tỉnh Thanh Hóa, thấy sách Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú ghi là: [na + cá]

- Tên bà vãi Thịch trong tấm bia hậu ở chùa Hương Canh, huyện Mê Linh, ghi là: [thạch + nháy].

- Tên một số xứ đồng trong thác bản văn bia số 8090 (ở Kho văn bia Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ghi là:

(đồng) Đừng [đình + cá]

- Ếch [ích + cá]

- Vẩy [Vỉ + cá]

4. Một số từ đọc theo âm Hán Việt trước thời Đường, cũng hay dùng dấu cá. Ví dụ:

Đìa [trì + cá]

Gấm [cẩm + cá]

Goá [quả + cá]

Vạch [hoạch + cá]

5. Các loại từ lấp láy, cũng thấy dùng dấu cá. Ví dụ:

- Từ láy vần:

Bơ vơ [ ba + cá], [vi + cá]

Lẫy đầy [lễ + cá], [đãi + cá]

Lẵng đằng [lãng + cá], [đẳng + cá]

Thon von [Thôn + cá], [viên + cá]

- Từ láy âm:

Đầm đìa: [đàm + cá], [đìa + cá]

Lăn lóc [lân + cá], [lợn + cá]

Thảnh thơi [thỉnh + cá], [thai + cá]

Vun vút [Viên + cá], [viết + cá]

- Từ láy tiếng:

Đùn đùn [đồn + cá], [miễn + cá]

Vợi vợi [vị + cá], [vị + cá]

6. Một số từ song âm được cấu tạo bằng cách ghép một từ Hán với một từ Nôm có dấu cá. Ví dụ:

- Từ lấn [lận + cá]

Quân nước Yên, ngựa nước Hồ chẳng ai ngăn khi xâm lấn (Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú A.176).

- Từ Khoé [Khoa + nháy]

Lọ là cạnh khóe cầu quan, chữ rằng đắc dị thủ nan đã đành (Sò nghiêu đối thoại AB.469).

Như trên đã trình bày, dấu cá được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều loại văn bản, từ sách Nôm cho đến bia đá, ván khắc gỗ, tranh dân gian. Dấu cá lại chỉ có tác dụng loại trừ khả năng đọc theo âm Hán Việt, nên nhiều trường hợp việc đoán định âm đọc của loại chữ này cũng khá phức tạp. Nhất là đối với những chữ ghi tên người, tên đất trong các tấm bia đá hoặc thư tịch cổ, có trường hợp không thể tìm được cứ liệu nào khác ngoài việc dựa vào bản thân chữ đó để đoán định âm đọc. Dưới đây, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát âm đọc của loại chữ Nôm dùng dấu cá này trong một số văn bản Nôm in bằng ván gỗ, chủ yếu là các văn bản Hán diễn Nôm, bao gồm:

- Gia lễ, AB. 572, bản in năm Vĩnh Thịnh 3 (1707) đời Lê Dụ Tông.

- Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, AB.372 bản in đời Lê.

- Cổ Châu Pháp Vân phật bản hạnh ngữ lục, A. 818, bản in năm Cảnh Hưng 13 (1752) đời Lê Hiển Tông.

- Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, A.176, bản in năm Cảnh Hưng 24 (1763) đời Lê Hiển Tông.

- Sò Nghiêu đối thoại, AB.1069, bản in năm Cảnh Hưng 41 (1780) đời Lê Hiển Tông.

- Tân san sử bản thích nghĩa toàn thư, AB.583, bản in năm Cảnh Hưng 42 (1781), đời Lê Hiển Tông.

- Thi kinh giải âm, AB.144, bản in năm Quang Trung 5 (1792) đời Tây Sơn.

- Chu dịch giải nghĩa diễn ca, AB. 29, bản in năm Gia Long 14 (1815) đời Nguyễn.

- Tứ thư ước giải, AB.279, bản in năm Minh Mệnh 20 (1839) đời Nguyễn.

- Địa tạng bản hạnh, AB.44, bản in năm Tự Đức 28 (1875) đời Nguyễn.

Dựa vào phần chữ Hán ở chính văn và các cứ liệu khác, chúng tôi cố gắng xác định âm đọc đúng của các chữ Nôm có dùng dấu cá trong các văn bản trên đây để lập bảng so sánh âm đọc của nó với các chữ Hán ghi từ Hán - Việt tương ứng. Các văn bản sử dụng trên hầu hết là bản in đời Lê và đầu đời Nguyễn, nên số lượng dấu cá tìm thấy nhiều hơn, do vậy trong bản so sánh này chúng tôi chỉ chọn riêng những chữ có dùng dấu cá. Số lượng chữ nêu ra ở đây, phải là những chữ xuất hiện từ hai lần trở lên và có âm đọc tương đối chắc chắn.

Bảng đối chiếu trên cho thấy sự khác biệt giữa phụ âm đầu, vần và thanh điệu của từ Hán Việt và từ Nôm mà chữ Hán và chữ Nôm tương ứng biểu hiện. Qua 100 đơn vị dùng để khảo sát, nhận thấy:

Về phụ âm đầu có 21 trường hợp. Khác biệt, phân bố cụ thể như sau:

l - r: 6 trường hợp

l - s: 1 trường hợp

l - tr: 3 trường hợp

tr - đ: 1 trường hợp

c - g: 6 trường hợp

ch - r: 1 trường hợp

h - v: 1 trường hợp

b - v: 1 trường hợp

t - tr: 1 trường hợp

Về thanh điệu có hai sự thay đổi. Một là sự thay đổi giữa các cặp bằng - bằng (không dấu và dấu huyền), hoặc giữa các cặp trắc - trắc (dấu ngã, dấu hỏi, dấu nặng, dấu sắc). Hai là sự thay đổi giữa bằng và trắc. Trong bảng có 32 trường hợp đổi thành, trong đó chỉ có 6 trường hợp thay đổi giữa các cặp bằng trắc, gồm:

lữ - lồ phái - phai
môi - mối tối - tôi
niệm - nem tín - ton

Trong 6 trường hợp này, chỉ duy nhất thấy một trường hợp âm Hán Việt đọc thanh bằng, song âm Nôm đọc thanh trắc, còn 5 trường hợp kia thì ngược lại.

Về vần, chúng tôi chưa tìm thấy loại chữ Nôm dùng dấu cá này có khác biệt gì so với các loại chữ Nôm khác, nên ở đây tạm chưa xét đến.

Từ kết quả khảo sát trên, có thể đi đến nhận định: loại chữ Nôm có mang dấu cá ghi từ Nôm có âm đọc gần giống với từ Hán Việt mà chữ Hán tương ứng biểu thị. Sự khác biệt về phụ âm đầu và thanh điệu giữa chúng chỉ chiếm một tỉ lệ thấp. Do vậy muốn tìm âm đọc của loại chữ Nôm này, chúng ta nên chú ý nhiều đến việc chuyển đổi vần cho phù hợp. Trường hợp phiên âm tên người tên đất trong các loại thư tịch Hán Nôm cổ, nếu như chưa tìm được cứ liệu chắc chắn để đọc đúng chúng ta chỉ cần thay đổi vần cho khác với âm Hán Việt, còn phụ âm đầu và thanh điệu nên giữ nguyên.

TB

VÀI NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH GHI TỪ LẤP LÁY BẰNG CHỮ NÔM TRONG QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

TRẦN KIM ANH
HOÀNG THỊ NGỌ

Quốc âm thi tập (QÂTT) của Nguyễn Trãi là một văn bản Nôm được giới nghiên cứu Hán Nôm quan tâm đến từ lâu và ở đây nói chung có nhiều vấn đề đã được giải quyết thỏa đáng hoặc tương đối thoả đáng. Tuy vậy vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn tới, chẳng hạn như vấn đề ghi từ lấp láy trong văn bản.

Từ lấp láy là loại từ gồm nhiều âm tiết (thường là hai âm tiết) có quan hệ với nhau chủ yếu về mặt ngữ âm. Những đặc điểm này của từ láy được thể hiện qua cách ghi bằng chữ Nôm ra sao; cách ghi có gì khác từ láy trong các văn bản khắc in cùng thời với nó? Đó là những vấn đề cần tìm hiểu. Giải quyết tốt những vấn đề này, không những có ích cho việc tìm hiểu chữ Nôm và việc xác định văn bản QÂTT, mà còn có ích cho cả ngữ pháp học và từ vựng học tiếng Việt nữa.

Dưới đây chúng tôi xin nêu một vài nhận xét sơ bộ về từ láy trong QÂTT của Nguyễn Trãi. Văn bản chúng tôi sử dụng là văn bản trong Ức Trai di tập quyển 7 in năm Tự Đức Mậu Thìn (1868), tàng bản của nhà Phúc Khê. Để thấy được những nét riêng của từ láy trong QÂTT của Nguyễn Trãi, chúng tôi có so sánh từ láy ở văn bản này với từ láy trong văn bản Kim Vân Kiều tân truyện (viết tắt: KVKTT) in gần đồng thời với văn bản trên tức là năm Tự Đức Nhâm Ngọ (1882). Thịnh Văn Đường tàng bản. Về phần phiên âm, chúng tôi có tham khảo hai bản phiên âm: 1, Bản của Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm; 2, Bản của Đào Duy Anh (Nguyễn Trãi toàn tập).

Nói đến từ láy trước hết phải kể đến loại từ lặp. Từ lặp là loại từ mà hai thành tố trong tổ hợp từ lặp lại, nhận hoàn toàn cả về phụ âm đầu lẫn phần vần, kiểu như: nhơn nhơn, phơi phới, vằng vặng...

Trong văn bản QÂTT, về loại từ này chúng tôi gặp cả thảy có 6 trường hợp với 97 lần xuất hiện (có từ xuất hiện 2, 3 lần). Về cách ghi chữ Nôm của loại từ này trong sách, tạm chia thành 2 cách:

I. Hai thành tố của tổ hợp từ được ghi đầy đủ và giống nhau. Ví dụ: nhơn nhơn ghi là 然 然 cách này có 10 trường hợp.

II. Một thành tố được ghi rõ chữ, còn thành tố thứ hai được thay thế bằng một cái dấu tạm gọi là dấu lặp (vốn quen dùng trong cách viết chữ Hán) nhằm thông báo cho người đọc biết thành tố thứ hai là lặp thành tố thứ nhất. Ví dụ: chênh chênh ghi là 征 匕 , cách này có 55 trường hợp.

Qua khảo sát, chúng tôi còn thấy hầu hết số từ lặp được ghi theo lối giả tá, chỉ có hai trường hợp là dặng dặng (khẩu + dậng) và cười cười (khẩu + kỳ) là được ghi theo lối hình thanh. Ngoài ra còn có một trường hợp được ghi bằng cả hai kiểu khác nhau, đó là trường hợp từ "mòn mọn" ở câu "Con lều mòn mọn đẹp sao" (Thuật hứng số 7), từ này được ghi theo lối giả tá: (muộn). Ở câu "Con lều mòn mọn cánh hồng trần" (Thuật hứng số 11) lại ghi theo lối hình thanh (muộn + tiểu).

Ở từ lặp đối với các trường hợp mang thanh trắc, yếu tố đầu hay bị đọc nhẹ đi, dẫn tới hiện tượng biến thanh, biến vần. Chẳng hạn, phơi phới (phơi phới) vặc vặc (vằng vặc). Trong các văn bản Nôm loại từ này dễ gây cho người ta ấn tượng nước đôi, có thể đọc phới phới hay phơi phới, vặc vặc hay vằng vặc cũng được. Ở QÂTT chúng tôi không gặp một trường hợp biến vần nào mà chỉ có 10 trường hợp biến thanh: lồng lộng, lừng lựng, cuồn cuộn,… Có trường hợp phơi phới được ghi đầy đủ cả hai thành tố là (phối phối), còn lại đều ghi có dấu lặp.

Về loại từ này ở bản KVKTT chúng tôi gặp 85 trường hợp với 144 lần xuất hiện. Cách ghi nói chung khá thống nhất với cách ghi trong QÂTT, tức là cùng ghi theo kiểu lặp lại 2 lần một chữ và gần như hoàn toàn theo lối giả tá. Số lượng các loại như sau có: 52 trường hợp ghi rõ ràng và đầy đủ ba thành tố: 20 trường hợp theo kiểu có dấu lặp...... trường hợp được ghi cả hai kiểu (chẳng hạn thiu thiu) ở câu 435 ghi đầy đủ hai thành tố và còn ở câu 286 ghi dấu lặp. Trong 85 trường hợp này, có 11 trường hợp biến vần và 10 trường hợp biến âm; ở đây cách ghi đầy đủ cả hai thành tố chiếm ưu thế hơn. Ngoài các cách ghi trên, chúng tôi còn gặp một trường hợp ngoại lệ là từ mảy may. Mảy may cũng là từ lặp có biến âm nhưng lại được ghi theo kiểu hai thành tố bằng 2 chữ khác nhau là 枚 . Theo chúng tôi đây là một trường hợp đặc biệt vì trường hợp lặp này không giống các kiểu lặp như phơi phới, mòn mọn. Chúng ta đều biết rằng ở đây yếu tố mảy mới là yếu tố có nghĩa. Có lẽ khi dùng chữ Nôm để ghi trường hợp này, cha ông ta cũng phần nào cảm thấy sự khác biệt đó.

Qua sự mô tả ở trên, có thể thấy khi ghi loại từ này, người ta chú ý nhiều đến mặt ngữ âm chứ ít chú ý đến mặt ngữ nghĩa vì hầu hết các trường hợp đều ghi theo lối giả tá.

Đối với hai trường hợp dặng dặng cười cười được ghi theo lối hình thanh, thì ở đây hình như người ta nhận thấy nó có cái gì đó khác với các từ lặp khác(*).

Trong từ lặp, dù lặp hoàn toàn như nhơn nhơn, lặp có biến thanh biến vần như phơi phới, vằng vặc cũng đều được nhận thức như lặp hai lần một thành tố có nghĩa. Trước hiện tượng ngữ pháp này, cha ông ta dùng cách ghi lặp lại hai lần một chữ là rất hợp lý.

Ngoài từ lặp ra, trong từ láy còn phải kể đến loại từ song âm, tức là loại từ chỉ láy hai lần phụ âm đầu như: lạnh lùng, đủng đỉnh... Khi tìm hiểu loại từ này trong văn bản QÂTT chúng tôi thấy có 57 trường hợp hai thành tố của từ được ghi bằng 2 chữ khác nhau mà không có ký hiệu gì biểu hiện sự liên quan với nhau. Trong số loại từ này ngoài hai trường hợp 為 (vả ve) và 伴 廵 (bạn bè) được ghi theo kiểu một thành tố ghi hình thanh, một thành tố ghi giả tá, còn tất cả đều được ghi theo lối giả tá.

Để tiện nghiên cứu, chúng tôi thấy cần phân loại những từ này căn cứ theo nghĩa của từng yếu tố trong tổ hợp. Có thể chia thành mấy loại sau:

1, Loại yếu tố chính đứng trước như đãi đằng, vắng vẻ... có 28 trường hợp.

2, Loại yếu tố chính đứng sau như xềnh xoàng, dùng dằng. có 6 trường hợp.

3, Cả hai yếu tố cùng vô nghĩa như lân la, khủng khỉnh... có 10 trường hợp.

4, Cả hai yếu tố cùng có nghĩa như hung hăng, nương nấu... Có 4 trường hợp.

Có thể tạm lập bảng thống kê về tình hình ghi Nôm các lại từ này trong QÂTT như sau:

Loại Số lượng Cùng giả tá Cùng hình thanh HT + GT GT + HT
1 28 28 0 0 0
2 6 6 0 0 0
3 19 18 0 1 0
4 4 3 0 0 1
Cộng 57 53 0 1 1

Ở bản KVKTT về các từ song âm này chúng tôi gặp 55 trường hợp. Cũng theo cách trên chúng tôi có bảng thống kê sau:

Loại Số lượng Cùng giả tá Cùng hình thanh HT + GT GT + HT
1 93 66 9 17 1
2 14 9 3 2 0
3 31 26 3 1 1
4 17 4 3 4 6
Cộng 155 105 18 24 8

Đối chiếu hai bảng thống kê chúng tôi thấy tỉ lệ lối viết hình thanh ở bản QÂTT của Nguyễn Trãi ít hơn ở KVKTT rất nhiều: ở QÂTT là 3,3% ở KVKTT là 32%. Qua đây có thể thấy QÂTT giữ được lối viết cổ bởi vì trong các văn bản Nôm từ thế kỷ XVIII về trước mà chúng tôi đã gặp, người ta thường dùng lối chữ đơn tức là viết theo lối giả tá nhiều hơn. Còn ở bản KVKTT thì có thể thấy vào thời kỳ này có nhiều chữ ghép hơn bằng cách thêm những yếu tố mới vào chữ đã có.

Ngoài 57 trường hợp của QÂTT nói trên, còn có 11 trường hợp được ghi theo kiểu hai thành tố đều có ký hiệu phụ như nhau tức là ký hiệu phụ chung. Chẳng hạn mòn mỏi có ký hiệu phụ chung là bộ nạch; ngâm nga có ký hiệu phụ chung là khẩu.

Về cách ghi này qua đối chiếu với văn bản KVKTT chúng tôi thấy tỷ lệ ở QÂTT ít hơn rất nhiều và hình như cũng ít phức tạp hơn. Ở QÂTT của Nguyễn Trãi kiểu này chiếm 16,2% trong loại từ song âm, ở KVKTT chiếm đến 37%. Về loại này chúng tôi gặp một số từ ở QÂTT ghi không có ký hiệu phụ chung, nhưng ở KVKTT lại xuất hiện. Ví dụ:

Lạ lùng QÂTT ghi La Thủy + lộng, KVKTT ghi La Quai xước + lộng. Lai láng QÂTT ghi lai lãng, KVKTT ghi Thủy + lai thủy + lãng. Lạnh lùng QÂTT ghi Thủy + lệnh thủy + long, KVKTT ghi Thủy + lệnh thủy + lộng.

Khi nói đến từ láy chủ yếu là nói về quan hệ ngữ âm giữa các yếu tố trong một từ. Mối quan hệ đó, thể hiện ở sự lặp lại phụ âm đầu hoặc phần vần, có khi cả hai yếu tố. Nhưng về mặt văn tự nó được thể hiện bằng việc dùng ký hiệu phụ chung để ghi. Điều này cho thấy mối liên kết giữa hai thành tố trong một chỉnh thể từ trên mặt chữ. Ký hiệu phụ chung thường được lấy từ một bộ phận của thành tố thứ nhất và ghi lặp ở thành tố thứ 2. Ví dụ khẩu trong nói được ghi lặp lại ở thành tố thứ hai trong 能 (nói năng); nữ trong (nợ) được lặp lại trong (nợ nần) 笡 .

Ở QÂTT chúng tôi chỉ gặp một loại ký hiệu phụ mà trong KVKTT đã được sử dụng như một phương tiện khá phổ biến để thể hiện mối liên quan giữa hai thành tố trong một chỉnh thể từ. Càng về sau ký hiệu phụ càng được sử dụng một cách phổ biến để ghi các cặp từ láy trong chữ Nôm. Đó chính là sự tất yếu trên con đường phát triển đi đến hoàn thiện của chữ Nôm. Từ đó, chúng tôi thấy rằng chữ Nôm trong QÂTT được viết phần lớn theo lối chữ đơn, giả tá. Sự xuất hiện ký hiệu phụ rất ít và chưa rõ ràng ở QÂTT giúp chúng ta thấy rõ: chữ Nôm trong văn bản QÂTT gần với lối chữ của thời Nguyễn Trãi, rất khác biệt với lối chữ được khắc in cùng thời với nó.

Trong phạm vi từ lấp láy, ngoài hai từ kể trên còn có loại thứ ba nữa là từ điệp âm, tức là loại từ láy mà hai thành tố của từ lặp lại nhau ở phần vần.

Loại từ này chúng tôi gặp trong QÂTT tương đối ít, chỉ có 27 trường hợp lặp lại thanh điệu như nhau như: Lao xao, Lừ khừ, Lúc nhúc... và 4 trường hợp 2 thanh điệu lặp khác nhau như om thòm.

Nói chung loại từ này ở QÂTT cũng như KVKTT số lượng ít hẳn so với tỷ lệ hai loại nói trên. Cách ghi loại từ này cũng giống với cách ghi từ song âm. Tức là cũng ghi hai thành tố bằng hai chữ khác nhau và hầu hết ghi theo lối giả tá. Điều này chứng tỏ người viết chữ Nôm đã nhận thức đúng như điều mà các nhà ngữ pháp hiện nay đã phân tích từ song âm và từ điệp vận chỉ là hai loại nhỏ nằm trong loại lớn là từ lặp bộ phận và toàn bộ loại từ lặp bộ phận đối lập với loại từ lặp hoàn toàn.

Qua các phần vừa mô tả trên đây, ta thấy những cách dùng chữ Nôm để ghi từ lấp láy cũng có chỗ chưa thật nhất quán, song điều này cũng dễ hiểu đối với một loại văn tự chưa được điển chế hóa như chữ Nôm. Tuy vậy có những chỗ đã chứng tỏ rằng người viết có một cơ sở hợp lý và khoa học để tạo nên những nét riêng biệt cho cách ghi các từ lấp láy mà khi tìm hiểu hoặc phiên âm QÂTT không thể không quan tâm. Hơn nữa qua sự đối chiếu QÂTT với KVKTT chúng ta thấy rằng tuy QÂTT được khắc in ở đời Nguyễn nhưng nó vẫn giữ được nhiều lối viết chữ Nôm ở đời Lê, khác hẳn với lối viết của thời đại nó được khắc in tức là thời Nguyễn về sau này./.

TB

TÌM HIỂU TIẾNG "CHƯNG" QUA MỘT VÀI VĂN BẢN HÁN NÔM CỔ

BÙI THANH HÙNG

Tiếng "chưng" hiện nay không còn chỗ đứng trong tiếng Việt hiện đại nữa. Nó đã bị người ta lãng quên từ lâu, may lắm là còn lưu lại bóng dáng trong một đôi tiếng ghép như trong câu ca dao:

Vì chưng bác mẹ em nghèo,
Cho nên em phải băm bèo thái khoai.

Mới nghe qua hình như tiếng "chưng" chẳng có ý nghĩa gì, nó chỉ là tiếng đệm và có lẽ do chuyển âm đơn thuần từ chữ "chi" của tiếng Hán sang mà thôi. Trong quá trình khảo sát văn bản Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, ký hiệu VHv.1491 của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (văn bản này từ đây trở xuống chúng tôi gọi tắt là Truyền kỳ mạn lục) và bản giải âm Nôm Khóa hư lục của Trần Thái Tông (theo văn bản Khóa hư lục - Đào Duy Anh phiên âm và chú giải của Nxb. KHXH, H. 1974) chúng tôi thấy không hẳn như vậy. Tiếng "chưng" không phải chỉ là tiếng dùng để dịch từ "chi" mà còn dùng để dịch các từ chữ "ư", "phù", "hồ", "chư" và cả "thành" trong tiếng Hán nữa. Căn cứ vào ý nghĩa của các từ chữ "chi", "ư", "phù", "hồ" và "thành" của tiếng Hán cùng với khả năng kết hợp của tiếng "chưng" với các loại từ khác trong tiếng Việt cũng như vị trí và vai trò của nó trong câu tiếng Việt chúng ta có thể ở mức độ nhất định lần ra được ý nghĩa của nó, một yếu tố đã trở thành khó hiểu của tiếng Việt.

Khi so sánh bản Hán với bản dịch Nôm trong Truyền kỳ mạn lục cũng như trong Khóa hư lục chúng tôi thấy rằng:

1. Không phải bất cứ từ "chi" nào trong tiếng Hán cũng được dịch ra tiếng "chưng" trong bản dịch Nôm.

2. Từ "chi" chỉ được dịch là "chưng" khi từ "chi" đóng vai trò là một hư từ. Còn khi từ "chi" đóng vai trò là một đại từ chỉ thị thì nó được dịch là "đẩy" và khi đóng vai trò là một động từ thì nó lại được dịch là "đi".

3. Ngoài ra tiếng "chưng" còn được dùng để dịch giới từ "ư" tiểu phẩm từ "hồ" và "phù". Ở bản giải âm Nôm Khóa hư lục chúng tôi còn bắt gặp cả trường hợp tiếng "chưng" dùng để dịch từ "chư" và "thành" của tiếng Hán nữa.

4. Cuối cùng tiếng "chưng" ở nhiều chỗ của bản giải âm Nôm, chúng tôi thấy không tương ứng với yếu tố nào trong câu văn Hán: nó chỉ là tiếng được đưa thêm vào trong câu văn dịch ra tiếng Việt mà thôi.

Căn cứ vào sự đối ứng giữa bản Hán và bản dịch Nôm chúng tôi phân chia như sau:

I. Tiếng "chưng" dùng để dịch chữ "chi"

Căn cứ vào sự tương ứng hay không tương ứng giữa vị trí của các bộ phận trong câu văn Hán và câu dịch Nôm chúng tôi phân ra các trường hợp sau đây:

1. Vị trí các bộ phận giữa câu văn Hán và câu văn dịch ngược nhau. Vị trí chuyển đổi của chúng có thể được biểu diễn bằng sơ đồ sau: A chi B - chưng BA.

Sơ đồ này mang tính chất phổ biến trong các bản dịch Hán ra Nôm. Chỉ tính riêng câu chuyện đầu tiên trong Truyền kỳ mạn lục - Hạng vương từ ký thì theo sơ đồ này đã có tới 56 trường hợp trong tổng số gần 100 trường hợp câu dịch có tiếng "chưng". Chẳng hạn: Tật Tần chi dân được dịch là: "chưng dân ghét nhà Tần"; Hưng công Tần chi sư được dịch là: "đẩy chưng quân đánh nhà Tần" v.v..

Theo sơ đồ trên ta thấy A chi B trong tiếng Hán là một từ tổ kết cấu theo kiểu chính phụ trong đó A là thành phần định ngữ. Nó có thể là một danh từ ("phụ tử" trong "phụ tử chi cương"; "nhân nghĩa" trong "nhân nghĩa chi phản"...), một tính từ ("tịch mịch" trong "tịch mịch chi chi"; "hoang nhàn" trong "hoang nhàn chi dã"...); một động từ ("tứ" trong "tứ bôi canh chi ngữ"; "tính thôn" trong "tính thôn chi hậu"...), hoặc một mệnh đề ("hoàn khúc phụ" trong "tắc hoàn khúc phụ chi xa"; "hậu thế phùng tích" trong "hậu thế phùng tích chi địa"...). B là thành phần trung tâm ngữ thường là một danh từ hoặc là một động từ, tính từ chỉ nơi chốn, chỉ thời gian đã được danh hóa ("dao" trong "quốc bản chi đạo", "truyền" trong "đạo học chi truyền"; "kiện" trong "Chung Ly chi kiện"... đều là những động từ hoặc tính từ đã được danh hóa. "Chi" là thành phần liên kết giữa A và B và tạo thành một từ cổ có kết cấu chính phụ).

Tương ứng với A chi B trong bản Hán là chưng AB trong bản dịch Nôm. Như vậy trật tự trong câu văn dịch đã bị đảo ngược so với câu văn Hán. A đang là định ngữ và đứng trước trung tâm ngữ là B nay chuyển ra đứng sau trung tâm ngữ và "chưng" chuyển ra đứng ở vị trí đầu của từ tổ sát ngay với B.

a. Chưng BA xuất hiện sau động từ làm thành phần bổ ngữ trong câu. "Chưng" ở đây có giá trị như một giới từ.

Ví dụ: - đẩy chưng quân đánh nhà Tần...

- thì quay chưng xe về đất Khúc Phụ...
(Hạng Vương từ ký)

b. Chưng BA xuất hiện ở đầu câu trước một kết cấu động danh hoặc một cụm chủ vị làm trạng ngữ trong câu, "chưng" có thể hiểu như một phát ngữ từ có tác dụng nhấn mạnh.

Ví dụ: Chưng chân mỏi ngựa ô truy
(Hạng Vương từ ký)

Nguyên chưng thân hình vốn không năm uẩn chẳng có.
(Khóa hư lục, quyển Thượng, Tựa).

2. Vị trí các bộ phận giữa câu văn Hán và câu văn dịch giống nhau. Trường hợp này được biểu diễn bằng sơ đồ A chi B A chưng B.

Cấu trúc của A chi B vẫn là cấu trúc chính phụ như đã nêu ở trên nhưng thành phần của chúng trong những trường hợp này đã cho phép người dịch giữ nguyên vị trí của chúng trong câu văn dịch. Thành phần từ tổ ở văn bản Hán có: A là danh từ, B là danh từ hoặc động từ, tính từ đã được danh từ hóa. Những trường hợp B là động từ, tính từ đã danh từ hóa khi chuyển sang bản dịch Nôm lại động từ, tính từ hóa trở lại là vị trí của nó vẫn không thay đổi nghĩa là vẫn đứng sau A, có điều nó không còn đóng vai trò trung tâm ngữ như ở câu văn Hán mà đã trở thành thành phần phụ cho A. Như vậy ta thấy ở đây trật tự của từ vẫn được giữ nguyên còn cấu trúc thành phần của từ tổ đã bị thay đổi nhưng giá trị thông báo của toàn câu văn được bảo toàn.

a, Trường hợp A chưng B có B là tính từ:

Ví dụ: ... tiếu chi thâm da
(chê chưng lắm vậy vay)
(Hạng Vương từ ký)

b, Trường hợp A chưng B, B là động từ:

Ví dụ: thiên chi phù Hán
(trời chưng phù hộ nhà Hán)
(Hạng Vương từ ký)


Thể mạo suy vi, thục thị Lư Nhân chi cứu
(Hình dung gầy mòn, ai làm thầy Lư Nhân chưng cứu)
(Khóa hư lục)

c, Trường hợp A chưng B có B là danh từ và cả từ tổ đúng trước một động từ, chúng thực hiện chức năng chủ ngữ trong câu.

Ví dụ: Hán Sở chi nhân dữ bất nhân cô trí vật luận
(Nhà Hán nhà Sở chưng có nhân cùng chẳng có nhân hãy để chưa luận)
(Hạng Vương từ ký)

II. Tiếng "chưng" dùng để dịch chữ "ư" và "vu"

Nhìn chung các trường hợp "ư" và "vu" được dịch thành "chưng" thường không có sự đối lập về trật tự cũng như thành phần từ tổ như trường hợp chữ "chi" trình bày ở trên.

1. Sự xuất hiện của từ "ư" và "vu" có thể được biểu diễn bằng sơ đồ X ư Y trong đó X là động từ còn Y là danh từ và "ư" là giới từ. Khi chuyển sang bản dịch Nôm ta có sơ đồ: X chưng Y. Trong những trường hợp này "chưng" được dùng làm giới từ chỉ địa điểm trong câu. Ví dụ:

Nịch ư Triệu vương chi ái nhi khinh quốc bản chi dao
Đắm chưng con yêu là Vua Triệu mà dễ chưng di động cội nước.
(Hạng Vương từ ký)

2. Các trường hợp "ư" thuộc kết cấu chỉ nguyên nhân. Trong các trường hợp này "ư" thường đứng sau "do" làm thành kết cấu "do ư" dùng để chỉ nguyên nhân và được dịch là: bởi chưng. Ví dụ:

Bất giác bất tri, do ư tị nghiệp
(Chẳng biết chẳng hay, bởi chưng tội mũi)
(Khóa hư lục - Sám hối tị văn tội)

3. Trong bản dịch Nôm Hạng Vương từ ký có một trường hợp "chưng" vẫn được coi là giới từ chỉ nguyên nhân nhưng vị trí của các từ đó bị đảo lộn theo sơ đồ: X ư Y chưng YX ví dụ:

Nhiên tốt kiến tệ ư Hán
(Song sau lại thấy chưng nhà Hán giết)
(Hạng Vương từ ký)

III. Các trường hợp "chưng" dùng để dịch từ "chư" và "thành"

1. Trong tiếng Hán "chư" có nguồn gốc với hai chữ "chi" và "ư" cho nên trong những trường hợp này "chưng" cũng tương ứng với hai chữ ấy. Trong bản giải âm Nôm Khóa hư lục chúng tôi thấy nó đứng trước một từ chỉ phạm trù số với nghĩa là "tất cả".

Ví dụ:

Thiệt căn nghiệp giả, ham chư vị vị
(Tội thiệt căn ấy, tham chưng mọi mùi)
(Khóa hư lục- Sám hối thiệt căn tội).

2. Trong bản giải âm Nôm Khóa hư lục chúng tôi thấy có một trường hợp duy nhất "thành" được dịch thành "chưng". Tiếng "thành" trong tiếng Hán cũng như trong tiếng Việt nó đứng giữa động từ và danh từ chỉ quan hệ kết quả. Ví dụ:

Kết thành bảo cái
(Kết chung cái báu)
(Khóa hư lục - quyển Hạ - Bản dạ chúc Hương)

IV. Tiếng "chưng" dùng để dịch chữ "phù"

"Phù" trong tiếng Hán thường đứng ở đầu câu có giá trị như một phát ngữ từ hoặc đứng ở giữa câu với ý nhấn mạnh. Tiếng "chưng" ở bản dịch Nôm cũng có ý nghĩa tương tự. Ví dụ:

- phù hà quá
(chưng nào có lỗi chi)
(Hạng Vương từ ký)

- nhi tư phù tặc chi bì
(mà trừ chưng giặc khi mỏi)
(Hạng Vương từ ký)

Sau khi khảo sát tiếng "chưng" trong bản giải âm Nôm Truyền kỳ mạn lục Khóa hư lục chúng tôi chuyển sang nghiên cứu tiếng "chưng" trong văn bản Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có 27 câu có tiếng "chưng". Sau đây là sự phân loại của chúng tôi.

1. Tiếng "chưng" đứng ở vị trí giữa động từ và danh từ, chức năng chủ yếu của nó trong trường hợp này là làm giới từ chỉ địa điểm. Ví dụ:

Ở chưng trần thế mấy phen cười
(Bài số 138)

Ngoài nghĩa chỉ địa điểm, tiếng "chưng" trong những trường hợp này còn biểu hiện một mối quan hệ giữa động từ và bổ ngữ. Nó được hiểu như một giới từ và tương đương với tiếng "với" trong tiếng Việt. Ví dụ:

Bằng tôi nào thuở ích chưng dân
(Bài 37)

Thêu cùng gấm mặc chưng đời
(Bài 104)

Hiền kẻ say chưng bể tửu sắc
(Bài 130)

Khỏi quyền đã kẻo lụy chưng danh
(Bài 156)

Kham cười anh Vũ mắc chưng lồng
(Bài 248)

Những trường hợp vừa nêu ở trên rõ ràng có mối liên hệ tương ứng với sơ đồ X ư Y X chưng Y.

2. Tiếng "chưng" đứng sau tiếng "nhân", "bởi", "vì"... tạo thành kết cấu chỉ nguyên nhân. Ví dụ:

Vì chưng đời có chúa Đường Ngu
(Bài 58)

Bởi chưng hệ chúa Đông quân
(Bài 210)

Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày
(Bài 251)

Được dưỡng vì chưng có thửa dùng
(Bài 252)

Sang cùng khó bởi chưng trời
(Bài 10)

Kết cấu này chiếm một tỉ lệ cao và là trường hợp duy nhất còn tồn tại đến ngày nay. Trong ca dao thời hiện đại chúng ta cũng còn bắt gặp khá nhiều những kết cấu như vậy. Theo chúng tôi kết cấu này có mối liên hệ tương ứng với kết câu "do ư" của tiếng Hán.

3. Tiếng "chưng" thuộc kết cấu chỉ điều kiện, chỉ mức độ: mặc chưng, dầu chưng, cực chưng. Ví dụ:

Gẫm hay mùi đạo cực chưng ngon<
(Bài 87)

Xanh bạc đầu chưng mặc chúng ngươi
(Bài 120)

4. Tiếng "chưng" thuộc kết cấu so sánh. Trong trường hợp này "chưng" đứng ở giữa và ngay sau tính từ để so sánh và có thể dịch ra tiếng Việt là "hơn". Ví dụ:

Nghĩa ấy bền chưng đá vàng
(Bài 93)

5. Tiếng "chưng" đứng trước một đại từ và có thể dịch ra tiếng Việt là "đối với", nó tương đương với từ "ư" trong tiếng Hán. Ví dụ:

Phần ấy chưng ta đã có thừa
(Bài 90)

Sự thể chưng ta dầu đạm bạc
(Bài 122)

6. Tiếng "chưng" thuộc kết cấu chỉ địa điểm, nơi chốn tương ứng với kết cấu "chi ngoại" của tiếng Hán. Ví dụ:

Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
(Bài 26)

Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thể
(Bài 40)

Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa
(Bài 80)

Đà ngoài chưng thế dầu hơn thiệt
(Bài 155)

7. Tiếng "chưng" tương ứng với từ "chư" trong tiếng Hán. Nó đứng sau một động từ và trước một số từ và hiểu với nghĩa là "tất cả". Ví dụ:

Lòng người một sự yêm chưng một
(Bài 120)

Tiếng "chưng" một yếu tố cổ trong tiếng Việt. Nó có nguồn gốc từ tiếng Hán và xuất hiện khá phổ biến ở những bản dịch Hán ra Nôm. Nhờ sự đối chiếu giữa bản Hán văn và bản dịch Nôm, chúng ta đã xác định được một số ý nghĩa của nó. Từ đó có điều kiện lý giải tiếng "chưng" trong các văn bản Nôm cổ. Trong quá trình chọn lọc sử dụng nhiều nghĩa của tiếng "chưng" đã bị đào thải, và ngày nay chỉ còn giữ lại một kiểu kết cấu duy nhất để chỉ nguyên nhân là "vì chưng", "bởi chưng" như chúng ta đã thấy.

CHÚ THÍCH

* Để tiện việc theo dõi những câu trích ở Quốc âm thi tập, chúng tôi đánh số bài theo văn bản: Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH, H. 1976

TB

VỀ VĂN BẢN BÀI HỊCH TÂY SƠN VÀ HAI TRƯỜNG HỢP PHIÊN ÂM TRONG
BÀI HỊCH NÀY

LIÊN VIỆT MAI

Hịch Tây Sơn là một tác phẩm văn học bằng chữ Nôm có giá trị trong kho tàng Văn học cuối thế kỷ XVIII. Bài hịch được truyền đi để khích lệ quân sĩ khi nghĩa quân Tây Sơn ra Bắc tiêu diệt họ Trịnh năm 1786(2). Bài hịch thấy chép trong các sách: An Nam nhất thống chí; Hoàng Lê nhất thống chí; Quốc âm phú; Lê quí dật sử. Sau đây là tình trạng văn bản được chép trong các sách đó.

1. Sách Lê quí dật sử được lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Sử học, ký hiệu Hv. 195. Sách này nói về bối cảnh ra đời của bài hịch như sau: "Nguyễn Tiến Phúc(3) tiến quân theo đường bộ, niên hiệu Thái Đức 9, treo bài hịch để lừa dụ thiên hạ". Bài hịch ở đây không viết theo mẫu của thể loại hịch, nghĩa là bài hịch không có đầu đề, không có từ mào đầu "Từng nghe rằng" và từ kết "Nay hịch". Toàn bộ bài hịch có 700 chữ, viết lối đá thảo. Nhiều chữ Nôm viết theo dạng chữ Hán + nháy, ví dụ chữ ngỡ (ngữ + nháy) trong câu "dân kinh loạn ngỡ binh điếu phạt"; chữ thảy (thái + nháy) trong câu "súng ống thuyền bè thu thảy thảy". Có nhiều chữ Nôm được dùng nguyên dạng chữ Hán, như 貞 (trinh), khi so sánh với các văn bản khác, thì chữ này đã được viết thêm nét và đọc thành "riêng". Qua việc khảo sát văn bản, dựa vào các chữ được viết húy, như chữ "thời" được viết thành "thìn", chữ "nhiệm" được viết bớt nét hay dùng chữ "dụng" để thay thế (chữ "thời" và chữ "nhiệm" là những chữ kiêng tên húy thời Tự Đức), chúng tôi cho rằng sách Lê quí dật sử là một bản sao thực hiện vào thời Tự Đức. Vì vậy văn bản bài hịch theo lô-gích, cũng được sao chép vào giai đoạn đó (1848-1883). Đây là văn bản bài hịch có số chữ nhiều nhất, lại rõ ràng và mạch lạc. Chúng tôi lấy văn bản này làm bàn trục để đối chiếu, so sánh với các văn bản khác của bài hịch.

2. Sách Quốc âm phú hiện được lưu trữ tại Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu AB.184. Đây là một văn bản sao, do Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp thuê chép. Người sao chép đã căn cứ vào văn bản nào thì không rõ. Bài hịch chép ở sách này có 616 chữ, đầu đề là Xuất sư hịch, chữ viết lối chân phương. Khi chép lại bài hịch, người sao chép đã bỏ trống nhiều chữ. Ví dụ: tờ 20b, dòng 8, bỏ trống 6 chữ; dòng 9 bỏ trống 8 chữ; tờ 21a, dòng 1, bỏ 7 chữ; dòng 2, bỏ 7 chữ; dòng 3 bỏ 7 chữ. Hoặc khi chép đến chữ ra (xuất + ca) trong câu "tài cả phải ra", đã nối ngay với chữ tay ở câu dưới, thành "Tài cả phải ra tay sửa chính dẹp tà". Khi đọc đến đây, ta thấy sự thất vận và thế đối trong câu văn biền ngẫu cũng không chỉnh. Tìm hiểu và so sánh với văn bản trong Lê quý dật sử thì chữ ra đến chữ tay còn 23 chữ nữa. Đoạn này, theo bản chép trong Lê quí dật sử là:

"... Sửa mối giềng tài cả phải ra,
Chước vạn toàn đà tạc đá Hoành sơn,
Binh tứ khắc lại trương buồm Bắc ả.
Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sửa chính dẹp tà".

Văn bản này có từ mào đầu "Từng nghe rằng", nhưng không có từ kết "Nay hịch". So sánh với văn bản trong Lê quí dật sử thì bản này chép thừa ra hai câu, mỗi câu 8 chữ, cộng 16 chữ. Những chữ thừa ra này là:

"Tuy rằng uy đãng định vốn nhơn nhơn.
Song cơ dạ nỗi hằng hoài đau đáu"

Căn cứ vào những đặc điểm vừa trình bày, có thể đoán định rằng văn bản mà người sao chép dùng là một văn bản đã cũ và nát.

3. Ở An Nam nhất thống chí, ký hiệu VHv.1542 hoặc Hoàng Lê nhất thống chí, ký hiệu A.883 hiện được lưu trữ tại Thư viện Viện Hán Nôm, văn bản bài hịch được chép vào cuối hồi thứ 7. Đầu đề của bài hịch được ghi là: Chỉnh hịch văn Quốc âm nhất đạo. Văn bản được chép ở hai sách này cơ bản giống nhau. Sự khác nhau giữa hai bản là sự sai lệch về số chữ. Bản chép trong An Nam nhất thống chí có 684 chữ, chữ viết lối chân phương. Cả hai bản này được chép đúng theo mẫu của thể loại hịch: có từ mào đầu "Từng nghe rằng" và từ kết "Nay hịch". So với văn bản chép trong Lê quí dật sử thì thừa ra hai câu, mỗi câu 8 chữ, cộng 16 chữ, nhưng vị trí của hai câu chép thừa này khác với vị trí của hai câu chép thừa trong bản chép ở sách Quốc âm phú. Từ cuối câu văn thêm này, hai bản đã bỏ 40 chữ so với bản chép trong Lê quí dật sử. Phần cuối của văn bản, bài hịch đã chép nhiều hơn so với văn bản chép trong Lê quí dật sử 14 chữ. Vần điệu của bài hịch càng về cuối càng lủng củng và thiếu mạch lạc. Đây cũng là một bản sao.

Qua việc tìm hiểu và so sánh bốn văn bản được chép ở bốn sách trên ta thấy:

1. Cả bốn văn bản đều là văn bản sao.

2. Chữ khó đọc ở mỗi văn bản đều có thể giải mã bằng cách đối chiếu với các văn bản còn lại để tìm ra một cách đọc chính xác. Ví dụ chữ 貞 (trinh) ở bản chép trong Lê quí sử dật, chữ này ở ba văn bản kia đều chép là 絗 (tu + rinh) đọc là "riêng" v.v...

3. Qua đối chiếu, so sánh các đoạn văn thừa hoặc thiếu trên, ta thấy văn bản chép trong Lê quí dật sử là một văn bản đầy đủ, hoàn chỉnh, có thể dùng làm căn cứ để hiệu chính các văn bản phiên âm đã công bố.

Bài hịch này đã được phiên âm và công bố lần đầu tiên vào năm 1932 trên tạp chí Nam Phong. Sau đó lại được công bố toàn văn hay trích đoạn trong các công trình nghiên cứu như:

- Phong trào nông dân thế kỷ XVIII, Sđd.

- Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, Nxb. Văn Sử Địa (trích).

- Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nxb. QĐND, H. 1971 (in lần 2).

- Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập 3, Nxb. Văn học, H. 1978.

Phần phiên âm bài hịch ra chữ Quốc ngữ chưa thấy ghi đã dựa trên văn bản gốc nào. Nhưng trong phần phiên âm cũng có chữ cần bàn thêm. Chúng tôi xin nêu hai trường hợp trong hai bản phiên âm được công bố gần đây. Đó là bản phiên trong Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ và Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập 3.

1. Hai bản phiên vừa nêu trên đều có câu "Trong sáu chữ thừa nguy đề dạ". Hai từ "sáu chữ" là gì thì hai văn bản đều không có chú thích. Chúng tôi đối chiếu với những văn bản chữ Nôm thì cả 4 văn bản đều chép là 鳩 懄 (cưu chữ). Hai chữ này được tạp chí Nam Phong (số 5, năm 1932) phiên là "cưu dư" và Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam phiên là "mang chữ". Chúng tôi đã tra các từ điển tiếng Việt như Đại Nam Quốc âm tự vị và Dictionarium Anamitico - Lati- num(4) đều không có hai từ trên. Tiếng Việt có từ "cưu mang", nghĩa của từ đó là giúp đỡ, đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn(5). Chúng tôi đề nghị phiên là cưu chữ có ghi chú thích về hai từ đó ("cưu" nghĩa là mang, đối với "mượn"; "cưu chữ" đối với "mượn lời"). Về bối cảnh của sự kiện thì lúc này họ Trịnh mang danh nghĩa giúp đỡ họ Nguyễn diệt trừ đảng nghịch Trương Phúc Loan, nhưng lòng dạ họ Trịnh lại có ý đồ nhân lúc họ Nguyễn gặp cơn hoạn nạn thừa cơ cướp lấy(6). Đặt cưu chữ vào trong bối cảnh của sự kiện: "Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn ngỡ binh điếu phạt; Trong cưu chữ thừa nguy để dạ, chốn thừa bình nên nỗi lưu ly" thì thấy hợp lý hơn.

2. Hai văn bản phiên âm nêu trên có câu: "phá nước thấp lao lung thấy đặng". Bản phiên âm trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập 3 có chú thích: "Bốn chữ nước thấp lao lung chưa rõ nghĩa". Các chữ câu này trong văn bản bài hịch được chép trong Lê quí dật sử như sau: "Cả nước thấp lung lao lấy trịch". Chúng tôi phiên lấy trịch mà không phiên thấy đặng. Bởi vì ba văn bản còn lại đều chép là (lễ + dĩ) được phiên là lấy(7) và (thủ xóc + Trịnh) được phiên là trịch(8) . Hai chữ (trúc + long) được phiên là lung; chữ (lao) vẫn phiên là lao, thành lung lao. Chúng tôi không phiên lao lung bởi vì: từ lao lung có nghĩa là "chuổng luổng, chỗ cấm buộc lúng túng, mất sự thong thả"(9). Nếu đặt từ này vào trong đoạn văn và giải thích thì không rõ nghĩa. Chúng tôi phiên âm là lung lao có nghĩa "ngang tàng, không có giáo hóa, không biết lễ phép"(10).

Xem xét thêm trường hợp này được ghi ở các văn bản khác thì thấy: trong Quốc âm phú, hai chữ Nôm này được ghi (bộ khẩu + nhung) (bộ khẩu + lao). Chữ (bộ khẩu + nhung) được phiên là nhũng(11) nghĩa là "nhùng nhằng" hay phiên là nhủng; có nghĩa là "nhũng nhiễu, hoạch sách". Chúng tôi phiên hai chữ Nôm này là nhũng sao, có nghĩa là "hạch sách, nhũng nhiễu", gần nghĩa với từ "lung lao".

Trong Hoàng Lê nhất thống chí hoặc An Nam nhất thống chí, hai chữ đó được dùng nguyên dạng chữ Hán (nhung lăng). Trường hợp này được hiểu theo nghĩa của chữ Hán là cậy mạnh, lăng bức. Như vậy văn bản trong Lê quý dật sử và cả ba văn bản còn lại đều ghi những chữ có nghĩa là ngang tàng, cậy mạnh, không biết lễ phép. Cho nên dựa vào văn bản chép trong Lê quý dật sử chúng tôi phiên là lung lao, hợp lý hơn.

Cuối cùng là từ nước thấp. Chữ thấp được phiên là thấp và hiểu là hèn yếu(12). Nước thấp hèn, biểu thị quan điểm của tác giả coi họ Trịnh là một kẻ hèn yếu. Chúng tôi dựa vào văn bản chép trong Lê quý dật sử để hiệu chính trường hợp há nước thấp lao lung thấy đặng thành há nước thấp lung lao lấy trịch cho phù hợp và sát nghĩa với văn bản.

Trên đây một vài ý kiến về văn bản bài Hịch Tây Sơn bằng chữ Nôm. Chúng tôi cũng đề xuất 2 trường hợp đã phiên âm không theo đúng văn bản. Xung quanh bài hịch còn có nhiều vấn đề cần đi sâu nghiên cứu thêm để làm sáng tỏ hơn nữa giá trị của một áng văn học thời Tây Sơn.

CHÚ THÍCH

(1) Về đầu đề của bài hịch, các văn bản chép khác nhau: Hoàng Lê nhất thống chí hoặc An Nam nhất thống chí chép đầu đề là Chỉnh hịch văn Quốc âm nhất đạo; Quốc âm phú ghi đầu đề là Xuất sư hịch; Lê quí dật sử không ghi đầu đề. Khi công bố văn bản này, nhiều người đã căn cứ vào nội dung mà đặt đầu đề mới. Thí dụ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam lấy đầu đề là Hịch Tây Sơn; Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ lấy đầu đề là Hịch xuất quân đánh nhà Trịnh v.v...

(2) Về thời điểm ra đời của bài hịch này chúng tôi dựa vào Lê quí dật sử của Bùi Dương Lịch. Về Lê quí dật sử Bùi Dương Lịch, xin xem thêm Nguyễn Thị Thảo; Bùi Dương Lịch, NCHN số 2/1985; Phạm Văn Thắm: Giới thiệu Lê quí dật sử, NCHN số 1/1986.

(3) Theo Minh Tranh thì Nguyễn Tiến Phúc là Nguyễn Nhạc (Xem Phong trào nông dân thế kỷ XVIII và khởi nghĩa Tây Sơn, Nxb. Sự thật, H. 1958).

(4) Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu VH.896.

(5) Từ điển Việt Nam phổ thông, Viện Thông tin KHXH, ký hiệu Vv.1433.

(6) Việt sử thông giám cương mục, q.44, tr.1883

(7) (8) Bảng tra cứu chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1976, tr.108.154.

(9) (10) (11) Đại Nam Quốc âm tự vị, Sài gòn 1895. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ký hiệu Vv. 530.

(12) Đại Nam Quốc âm tự vị, Sđd

TB

VÀI NÉT VỀ NỀN HÁN HỌC CŨ Ở VIỆT NAM DƯỚI CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA
THỰC DÂN PHÁP

QUỐC ANH

Cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân Pháp giữa thế kỷ XIX đã đưa Việt Nam vào một bước ngoặt lịch sử rất cơ bản. Cùng với việc áp đặt chế độ thuộc địa, các cuộc khai thác được tiến hành trên quy mô lớn, sự du nhập ào ạt của nền văn minh phương Tây đã tạo nên những biến đổi căn bản trong hình thái kinh tế - xã hội Việt Nam. Đó cũng là quá trình giải thể xã hội cổ truyền để bước vào xã hội hiện đại trong bối cảnh Việt Nam trở thành thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Trong bối cảnh của những biến đổi lịch sử ấy, nửa cuối thế kỷ XX đã chứng kiến sự lụi tàn của nền Hán học cũ. Từ địa vị chính thống, chi phối một cách sâu sắc đời sống xã hội cổ truyền, Hán học lùi dần về dĩ vãng để cuối cùng trở thành một môn cổ học dành cho những người muốn nghiên cứu về một thời đã qua.

Bài viết này muốn đề cập tới một trong những yếu tố lịch sử đã tác động dẫn đến chung cục của một nền Hán học đã từng tồn tại và ngự trị lâu dài suốt hàng chục thế kỷ trong lịch sử Việt Nam. Đó là thái độ và chính sách của thực dân Pháp đối với Hán học ở nước ta dưới thời chúng cai trị

1. Thực trạng Hán học thời Nguyễn

Nhà Nguyễn là vương triều cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, cũng là thể chế cuối cùng coi Hán học là "Quốc học". Cho đến trước khi để mất chủ quyền, mất nước vào tay giặc Pháp, triều Nguyễn đã nỗ lực trong việc khôi phục và đề cao nền Hán học sau một thời có chiều hướng suy giảm bởi những biến cố của thời cuộc (thế kỷ XVII, XVIII).

Đứng từ góc độ văn hóa, nền Hán học ấy đã góp phần vào hiện trạng văn hóa của đất nước như các nhà sử học ngày nay đã đánh giá: "Về mặt nào đó, nền văn hóa thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX đã đạt đến trình độ sơ kết quá trình phát triển của trí tuệ dân tộc từ trước cho đến lúc đó"(1). Chính dưới triều Nguyễn, chúng ta đã ghi nhận sự xuất hiện hàng loạt các thành tựu văn hóa (bằng chữ Hán) tiêu biểu như các bộ sử lớn: Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục... các công trình có tính bách khoa như Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam hội điển sử lệ... công trình địa lý đồ sộ Đại Nam nhất thống chí... kho tàng văn học bằng chữ Hán được bổ sung một khối lượng phong phú, đội ngũ trí thức xuất thân từ Hán học trở nên đông đảo, nổi bật lên những khuôn mặt văn hóa kiệt xuất như Phan Huy Chú, Nguyễn Du v.v...

Thời Nguyễn cũng là thời kỳ các thiết chế văn hóa có liên quan đến nền Hán học được đầu tư, củng cố và hoàn thiện. Bộ sử biên niên Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn ghi lại vô số các sự kiện, dữ kiện cho thấy mối quan tâm và những hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực như: trùng tu Văn miếu, lập tàng thư, tổ chức in khắc, biên soạn, san định các thể chế liên quan đến lễ nghi... và đặc biệt là trên lĩnh vực giáo dục, khoa cử. Chỉ hai năm sau khi lên ngôi, ông vua lập ra triều Nguyễn - Gia Long - đã mở lại khoa thi Hương và ban hành nhiều chính sách nhằm khôi phục và củng cố chế độ khoa cử đã bị gián đoạn sau nhiều năm loạn lạc. Các triều vua kế vị cũng ra sức tăng cường sự quan tâm đến hoạt động của bộ máy khoa cử. Năm 1822, Minh Mạng bắt đầu mở lại các khoa thi Hội và thi Đình, quy định lại thời hạn 6 năm mở một kỳ thi này rút đi một nửa (3 năm). Đó là chưa kể đến nhiều khoa Ân thi (mở thêm ngoài kỳ hạn) đã được tổ chức. Hệ thống các trường thi cũng được mở rộng khắp nước, số người theo học và đi thi ngày càng đông. Để tăng số người thi đỗ, từ năm 1829 lại đặt thêm ngạch "phó bảng"... Có thể nói rằng trong lịch sử khoa cử ở nước ta, chưa có thời nào số Cử nhân, Tú tài, Phó bảng, Tiến sĩ, Hoàng giáp, Thám hoa, Bảng nhỡn... lại được đào tạo nhiều và nhanh như dưới triều Nguyễn...(2).

Đứng từ góc độ hệ tư tưởng, Hán học - mà người ta còn gọi là Nho học - dưới triều Nguyễn được củng cố thêm nhờ sự suy tôn Khổng giáo. Hơn mọi triều đại trước, nhà Nguyễn tôn sùng Khổng giáo như hệ tư tưởng độc tôn, hy vọng biến giáo lý Khổng - Mạnh thành lớp vỏ giáp để bảo vệ vương triều của mình; dùng nó để siết chặt kỷ cương xã hội, trói buộc nhân dân, ràng buộc tri thức, diệt mầm chống đối; đồng thời cũng mong dùng nó làm lá chắn chống đỡ nguy cơ của các thế lực phương Tây đang rình rập xâm nhập. Giáo lý Khổng - Mạnh, cốt lõi của Hán học, được nhà nước trau dồi muốn giữ nó thành một nguyên lý bất di bất dịch như chính sự trường tồn của triều đại, bất chấp những biến đổi của thời đại.

Bề ngoài của bức tranh toàn cảnh nền Hán học nước ta vào trước ngày thực dân Pháp xâm lược, dễ gây ấn tượng về một thời "phục hưng" với tất cả vẻ bề thế, tôn nghiêm và thịnh đạt.

Sự thực khách quan là nhà Nguyễn đã thừa hưởng một thành quả rất lớn của triều đại Tây Sơn mà chính nó đã lật đổ, đó là nền thống nhất và hoàn chỉnh lãnh thổ dân tộc. Chính yếu tố đó đã kích thích sự phát triển nền văn hóa dân tộc mà Hán học giữ một địa vị quan trọng, đồng thời nó cũng tạo ra nhu cầu buộc giai cấp thống trị phải hoàn chỉnh thiết chế cai trị của nó cả trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị và văn hóa. Do đó Hán học có cơ được phát triển.

Tuy nhiên, đặt vào thời điểm của thế kỷ XIX, nền Hán học dưới triều Nguyễn đã bộc lộ những dấu hiệu khủng hoảng trầm trọng và tính chất lỗi thời.

Xác lập vương triều của mình sau khi đã thủ tiêu nhà Tây Sơn - một triều đại mang nhiều nhân tố cách mạng - nhà Nguyễn củng cố địa vị của mình bằng hệ tư tưởng Nho giáo và bộ máy quan liêu chủ yếu đào tạo qua hệ thống khoa cử Hán học, tăng cường sự đàn áp bóc lột nhân dân, và đóng cửa khước từ mọi khuynh hướng đổi mới, mọi giao lưu văn hóa với bên ngoài, trừ việc tiếp tục rập khuôn theo khuôn mẫu "Trung Hoa cổ điển" đã quá lỗi thời. Cuộc khủng hoảng diễn ra một cách sâu sắc và ngày càng quyết liệt với biểu hiện cao nhất là bão táp của các cuộc khởi nghĩa nông dân, đồng thời cũng khoét sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nền Hán học với toàn bộ thiết chế giáo dục và khoa cử vẫn đi theo khuôn sáo cũ và đứng trước những thay đổi của thời đại nó ngày càng tỏ ra sơ cứng và lạc hậu. Nền Hán học ấy không những chỉ thấm nhuần đạo Khổng - Mạnh già cỗi mà ngày càng có khuynh hướng rập khuôn nhà Thanh, một triều đại đang lụi tàn ở Trung Hoa. Cho đến giữa thế kỷ XIX, thậm chí tới lúc một phần lãnh thổ đất nước đã bị thực dân chiếm đóng, nền Hán học của triều Nguyễn vẫn bất di bất dịch, không chệch khỏi khuôn mẫu cổ điển và quá lạc hậu với thời đại, gạt bỏ, khước từ mọi cải cách, mọi sự xâm nhập của bất kỳ tư tưởng, kiến thức nào đứng ngoài đạo Khổng. Tình trạng mà chính Minh Mạng đã từng có lúc than phiền: "Khoa cử lâu nay lầm lạc quá, văn chương không quy củ nhất định chỉ câu nệ vào những lời xảo thủ, khoe khoang lẫn cho nhau mỗi nhà mỗi lớn, nhân phẩm cao hay thấp tùy theo sự giao hiếu của mỗi ông thầy, rồi khoa trường lấy dở bỏ lạc cũng do tự đó. Cái học viển vông như vậy làm gì chẳng hỏng nhân tài?" vẫn nguyên vẹn và ngày càng trầm trọng dưới các triều vua kế tiếp. Đã có lúc do sự bức bách của thời thế, các ông vua triều Nguyễn cũng nghĩ đến việc canh cải học chính, ví như Tự Đức năm thứ tư (1851) mở "Chế khoa" (khoa thi thêm) trong đó lưu ý đến việc ra đề và chấm bài thi phải chú trọng tới những điều cụ thể sát với việc trị nước, chớ nên xét kỹ đời cổ mà sơ lược đời nay; hoặc như năm 1853 lại lưu ý nội dung dạy học trò cần chú ý tới những việc đương thời, văn sách phải chú trọng hỏi: "sự trạng thực điển", thơ phú phải chú ý đến việc đương thời; năm 1873 lại chỉ thị cho các học quan trong sự học "phải lấy thực hành làm đầu, sau mới đến lời lẽ văn chương"... Tuy thế, cái ý muốn "thực học" cũng trở nên viển vông bởi cái thiết chế học hành và thi cử hầu như không đổi. Đến năm 1871, lại chính Tự Đức còn ban cho các tỉnh sách Lịch đại thông giám tập lãm của vua Càn Long nhà Thanh (mà năm Minh Mạng thứ 18 và Tự Đức thứ 21 cũng có ban sách này) với chỉ thị: "Đem bộ sách ấy cùng với Ngũ kinh, Tứ thư đại toàn gia tâm giảng dạy, đến kỳ thi đem những lời nghị luận và chế độ to tát trong sách ấy ra đầu bài để hỏi học trò". Việc khoa cử trước sau cứ tra điển lễ nhà Thanh mà châm chước thực thi": còn những văn minh phương Tây đang chinh phục cả hoàn cầu thì hầu như không thể len nổi vào cái học đương thời.

Thời thịnh trị thì chế độ khoa cử là guồng máy thâm nghiêm đào tạo người tài có khả năng giữ mối kỷ cương xã hội, kinh bang tế thế giúp đời, giúp nước; nhưng đến lúc suy vi thì khoa cử trở thành cái chợ buôn danh, bán tước, sản ra lớp quan liêu bất tài vô dụng, buông lơi việc nước để lo đục khoét dân lành. Ghi chép vào sử sách cũng như lưu truyền trong giai thoại dân gian không hiếm những chuyện ngang tắt, gian lận chốn trường thi, khiến cho việc khoa cử vốn được coi là việc hệ trạng quốc gia nay trở thành sự suy đồi:

"... Con nên khoa giáp cha mòn trán
Em được công danh chị nát trôn!"(3)

Tóm lại, cho đến trước khi có sự can thiệp của thực dân Pháp, nền Hán học của triều Nguyễn tuy được giai cấp thống trị chú trọng, vun đắp nhưng cũng như đối với hệ tư tưởng Nho giáo, nó đã mất hết sức sống chứa chất bên trong những thói tục hủ lậu, không đủ bản lĩnh tạo nên sức đề kháng của dân tộc trước những thử thách của lịch sử, trước nguy cơ của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Và ta sẽ thấy cơ đồ của bề dày hàng ngàn năm của nền Hán học cũ đã tàn lụi nhanh chóng như thế dưới chế độ thuộc địa, không chỉ vì những ngón đòn thâm hiểm của chủ nghĩa thực dân mà quan trọng hơn là nó đã mất chỗ đứng trong đời sống của người Việt Nam hiện đại cũng như trong nền văn hóa dân tộc đang không ngừng vươn tới sự đổi mới của thời đại cho phù hợp với sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2. Thái độ và chủ trương của thực dân Pháp đối với Hán học.

Ngay từ buổi đầu của cuộc chinh phục và cai trị thuộc địa, thực dân Pháp đã nhận ra rằng, ở Việt Nam "chỉ chinh phục đất đai thì không đủ... cần phải chinh phục tâm hồn" bởi vì "cái sức mạnh thực dân ấy đang đứng trước một dân tộc có nền văn minh có trước văn minh..." (Báo cáo hội nghị thuộc địa 1906). Do đó, bên cạnh sức mạnh bạo lực của đội quân viễn chinh, thực dân rất quan tâm đến những chính sách, thủ đoạn, giải pháp trên các lĩnh vực văn hóa và tư tưởng.

Trong bối cảnh của nửa cuối thế kỷ XIX, trong con mắt và tim đen của thực dân Pháp. Việt Nam (đặc biệt là lãnh thổ phía Bắc) không chỉ là thuộc địa lớn nhất, giàu nhất của đế quốc Pháp ở châu Á mà nó còn là bàn đạp cực kỳ trọng yếu để thâm nhập vào nước Trung Hoa khổng lồ, địa bàn mà của phương Tây tư bản chủ nghĩa, trong đó có Pháp đang thèm muốn. Do đó, bọn thực dân rất quan tâm đến việc tìm hiểu và thử nghiệm những đối sách đối với những gì liên quan đến "yếu tố Trung Hoa" ở Việt Nam. Và trong quan niệm đương thời (tất nhiên còn nhiều sai lạc), trong con mắt của các học giả và các nhà cai trị thực dân thì Việt Nam chỉ là "cái phiên bản thu nhỏ của văn minh Trung Hoa".

Lợi ích thực dân cũng như thực tiễn ở thuộc địa đã hướng mục tiêu của chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam vào việc tìm mọi cách hạn chế, tiến tới triệt tiêu các "yếu tố Trung Hoa" trong mọi lĩnh vực của đời sống thuộc địa. Đứng từ góc độ chính trị thì điều đó có nghĩa là tách Việt Nam khỏi khu vực ảnh hưởng có tính chất truyền thống của Trung Hoa. Đứng từ góc độ văn hóa thì thực dân Pháp sẽ dứt bỏ dân bản xứ khỏi những yếu tố tinh thần, văn hóa của quá khứ chứa đựng ý thức độc lập dân tộc và đối lập về mặt văn hóa với nền văn minh phương Tây.

Trong bối cảnh đó, mục tiêu cuối cùng được đặt ra ngay từ đầu của thực dân Pháp ở Việt Nam là phải thủ tiêu nền Hán học nhằm:

- Tách Việt Nam khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa

- Cô lập tiến tới xóa bỏ tầng lớp sĩ phu xuất thân từ Hán học mà một bộ phận quan trọng đã từng đóng vai trò hạt nhân của phong trào vũ trang chống Pháp suốt nửa cuối thế kỷ XIX.

- Thủ tiêu nền giáo dục và khoa cử truyền thống - guồng máy đào tạo bộ máy quan lại - để chuyển giao chức năng đó cho chính quyền thực dân nhằm đào tạo lớp tay sai bản xứ Tây học trung thành với nước Pháp.

- Phá hủy một phần quan trọng nền tảng của nền văn hóa truyền thống, tạo ra một mặt bằng thuận lợi để tạo dựng một nền văn hóa nô dịch theo khuôn mẫu của chính quốc.

Đành rằng quan điểm trên cũng đã trải qua không ít những cuộc tranh luận, nhiều khi gay gắt giữa các thế lực trong giới thực dân ở Việt Nam. Nhưng, tất cả giới cai trị cũng như các học giả thực dân đều nhất trí với nhau ở sự cần thiết phải gạt bỏ Hán học ra khỏi địa vị chính thống mà trước hết là trên lĩnh vực chữ viết, giáo dục - khoa cử và tư tưởng. Sự thiếu nhất trí giữa họ chỉ còn xoay quanh mức độ, tiến độ các bước đi của quá trình gạt bỏ Hán học cũng như việc khai thác các yếu tố thực dân có thể lợi dụng được ở nền Hán học cổ điển dó, đặc biệt là từ những giáo lý của Khổng học. Những quan điểm này cũng được phản ánh trong cuộc đấu tranh giữa hai trường phái cai trị thuộc địa: phái "đồng hóa" (assimilation) và phái "hợp tác" (association) kéo dài trong suốt cuộc chinh phục cho tới cuối thế kỷ XIX(4).

Dưới đây sẽ trích dẫn một số ý kiến của các quan chức hoặc học giả thực dân cao cấp phản ánh quan điểm chính thống của chính quyền thực dân đối với Hán học:

- "Từ những ngày đầu, đã hiểu rằng chữ Hán là một ngăn trở (barrière) giữa chúng ta và người bản xứ, sự giáo dục bằng thể chữ tượng hình khó hiểu làm chúng ta hoàn toàn không nắm bắt được, lối viết này... khó cho việc truyền đạt đến dân chúng những tư tưởng cần thiết liên quan đến trình độ của nền cai trị mới cũng như thương mại. Chúng ta bắt buộc phải theo truyền thống nền giáo dục riêng của chúng ta, đó là cách duy nhất khiến chúng ta có thể gần gũi người An Nam thuộc địa hơn và ghi vào tâm trí họ những manh mối của nền văn minh Âu châu đồng thời cô lập họ khỏi ảnh hưởng đối nghịch của các lân quốc của chúng ta (ý nói tới Trung Hoa)" (Thư đề ngày 15 tháng 6 năm 1876 của giám đốc nội vụ Vial)(5).

- "Chúng ta sẽ được lợi cả về mặt thực tế nếu chúng ta dần dần tiêu diệt được cái chữ Nho mà việc sử dụng chỉ có thể đem lại một ảnh hưởng tai hại đối với công trình đồng hóa đang được chính phủ dồn sức thực hiện" (Thông tư của chính quyền thuộc địa ngày 10-4-1878)(6).

- "Phải làm sao cho những tư tưởng hiện đại đến với người Việt Nam qua môi giới chúng ta. Vậy mà hiện nay họ chỉ biết văn minh châu Âu qua những sách giáo khoa Trung Hoa kém cỏi, biểu hiện các hành vi và các thể chế của chúng ta một cách không đúng đắn và thường là thảm hại" (Thư của Toàn quyền Sarraut gửi Tổng trưởng thuộc địa ngày 6-3-1912) v.v...

Chúng ta có thể tìm thấy tinh thần căn bản và nội dung tập trung nhất của toàn bộ quan điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với Hán học ở Việt Nam qua nội dung bức thư gửi Tổng trưởng thuộc địa Pháp của Giám mục Puiginier tiếng nói của giới Thừa sai Paris là thế lực vốn có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đường lối thuộc địa của nước Pháp ở Đông Dương:

"Điều thứ hai (Trong số 8 điều kiến nghị, điều thứ nhất là "công giáo hoa" - Q.A chú) là bỏ chữ Nho và trước hết thay thế bằng tiếng An Nam với chữ viết châu Âu gọi là "Quốc ngữ" (sic) rồi sau đó bằng tiếng Pháp. Nhưng việc này phải tiến hành chậm chạp, từ từ và cũng không nên nói ra vì ngại đụng chạm tới dân chúng đã quen dùng chữ Nho và vì lý do chính trị, để tránh làm mếch lòng nước Tàu (...). Cần phải dạy càng sớm càng tốt cho người An Nam viết và đọc được tiếng của họ ghi bằng chữ Âu châu, việc này dễ dàng và tiện lợi hơn việc dùng chữ Nho. Sau vài năm bắt buộc những giấy tờ chính thức không được viết bằng chữ Nho, nhưng phải viết bằng chữ bản xứ và tất cả các viên chức phải được dạy học và viết bằng chữ An Nam ghi bằng chữ Âu. Trong thời gian đó, việc dạy tiếng Pháp sẽ tiến bộ và người ta đã chuẩn bị cho cả một thế hệ viên chức được học tiếng của chúng ta (tức Pháp văn). Như vậy có lẽ trong hai mươi hay hai mươi lăm năm người ta sẽ có thể bắt buộc mọi giấy tờ đều phải viết bằng Pháp ngữ và do đó chữ Nho dù người ta không cấm học cũng bị bỏ rơi dần dần.

Khi người ta đạt được những kết quả lớn lao đó, người ta đã đoạt lại của nước Tàu một phần lớn ảnh hưởng ở xứ An Nam và giới Nho sĩ An Nam rất thù ghét sự thiết lập thế lực Pháp sẽ bị tiêu diệt dần dần.

Vấn đề này có một tầm quan trọng rất lớn, và sau khi đạo Thiên Chúa đã được thiết lập, tôi coi việc bãi bỏ chữ Nho và cả việc thay thế dần dần bằng chữ Quốc ngữ trước tiên rồi bằng chữ Pháp như một phương thức rất chính trị, rất thực tế và rất hữu hiệu để lập ở Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ của Viễn Đông". Bức thư đề ngày 4-5-1887 và thực tế lịch sử đã cho thấy mọi diễn biến liên quan đến số phận của Hán học đều diễn ra gần đúng với những đề nghị cũng như hiệu quả cũng gần đúng với sự kiến của Puiginier.

3. Những chính sách cụ thể của chính quyền thực dân đối với Hán học.

Nói một cách khác, chúng ta sẽ tìm hiểu xem thực dân Pháp đã thực hiện "bản án khai tử" Hán học ở nước ta như thế nào và bằng cách nào?

Chúng tôi xin liệt kê dưới đây, theo thứ tự thời gian, lịch sử những sự kiện chủ yếu, có liên quan đến số phận của Hán học kể từ lúc thực dân Pháp xâm lược, để bạn đọc có thể hình dung được những thủ đoạn của chính quyền thuộc địa và xin lưu ý trước đến ba lĩnh vực trọng yếu: ngôn ngữ và chữ viết, giáo dục và khoa cử, hành chính và đào tạo quan lại:

- Ngày 29-9-1861 (tức là một năm rưỡi sau khi nổ súng đánh chiếm Nam Bộ). Đô đốc Charner đã ra nghị định cho phép Trường dòng mang tên Bá Đa Lộc (Collège d'Adran) được đổi tên thành Trường Thông ngôn (Collège des Interprètes) và có chức năng như tên gọi của nó, chủ yếu dạy tiếng Việt cho người Pháp và tiếng Pháp cho người Việt.

- Ngày 27-2-1862, vào dịp triều đình Huế mở khoa thi Hội năm Nhâm Tuất, Thiếu tướng Bonnard ra nghị định liên quan đến việc học và khoa cử duy trì theo lối cũ của dân bản xứ nhưng bị giới sĩ phu đón nhận một cách lạnh nhạt với thái độ bất hợp tác(7).

- Năm 1862, chính quyền thực dân xuất bản ở vùng chiếm đóng tờ báo đầu tiên giành cho người bản xứ tạm dịch là Tập san làng xã(8), tờ báo được dùng làm phương tiện giao tiếp giữa chính quyền và dân chúng thông qua chữ Hán. Sau khi chiếm Bắc Kỳ, thực dân cũng cho ra một tờ tương tự - tờ Bảo hộ Nam dân (số 1: 8-7-1888), sau đó được thay thế bằng tờ Đại Nam Đồng văn nhật báo, về danh nghĩa do Nam triều quản lý. Các tờ công báo bằng chữ Hán còn tiếp tục duy trì đến vài năm đầu thế kỷ XX nhưng có kèm theo phần Quốc ngữ. Năm 1864, tờ công báo bằng quốc ngữ đầu tiên: Gia định báo được xuất bản ở Sài Gòn.

- Ngày 22-2-1869, Thống đốc Nam Kỳ Ohier ra nghị định kể từ 1-4-1869 tất cả mọi giấy tờ chính thức đều viết bằng mẫu tự châu Âu (tức chữ Quốc ngữ), các văn bản chữ Nho chỉ có giá trị tham khảo và phải kèm theo bản dịch ra Quốc ngữ(9).

- Ngày 17-3-1879 thực dân Pháp thiết lập Sở học chính Nam Kỳ (Service de I' Instruction Publique) và đặt chương trình hệ giáo dục Pháp - Việt ở Nam Kỳ. Đây là bộ máy giáo dục và là thử nghiệm đầu tiên trên lĩnh vực giáo dục phổ thông đối với dân thuộc địa và một trong những mục đích hàng đầu của nền giáo dục này là loại bỏ dần Hán học. Theo chương trình này, sẽ có hai cấp học. Cấp 1 (hệ 3 năm) khi tuyển học sinh vào thi có thi chữ Hán nhưng trong 3 năm học đó, chữ Hán chỉ được học rất ít và cũng chỉ khuôn nội dung trong "Tứ thư" trong khi đó chữ Pháp và Quốc ngữ được nâng cao dần. Sang đến cấp 2 (3 năm) thì hoàn toàn không học chữ Hán(10). Như thế là ở Nam Kỳ về căn bản Hán học bị xóa bỏ trong các trường công, việc học chữ Hán chỉ còn tồn tại trong dân gian (các trường tự lập ở làng xã) và nền học vấn ấy hoàn toàn không được nhà nước thực dân công nhận. Như vậy là đến thời điểm này, Hán học ở Nam Kỳ đã hoàn toàn mất địa vị chính thống và nhanh chóng tàn lụi.

Ở Bắc và Trung Kỳ quá trình loại bỏ dần Hán học diễn ra theo một hình thái phù hợp với những hoàn cảnh xã hội và chính trị khác với ở Nam Kỳ. Đây là địa bàn mà Hán học sâu rễ bền gốc hơn Nam Kỳ, thực dân Pháp vẫn duy trì Nam triều và đáp dụng chính sách "bảo hộ" đối với Bắc và Trung Kỳ và về danh nghĩa vẫn giành cho triều đình Huế một quyền hạn nhất định (tất nhiên là bị thu hẹp dần) trong việc tổ chức bộ máy quan lại và giáo dục. Bởi vậy, thái độ cũng như chủ trương đối với Hán học của thực dân Pháp ở Bắc và Trung Kỳ cũng thận trọng, chậm hơn, nhất là chúng cũng đã có những bài học về phản ứng của dân chúng và lường thấy trước sự phản ứng này ở Bắc và Trung Kỳ sẽ dữ dội hơn nhiều nếu tiến hành việc xóa bỏ Hán học một cách nóng vội. Ở Bắc và Trung Kỳ thực dân Pháp chủ trương vẫn duy trì chữ Hán, nhưng từng bước tăng cường vị trí của chữ Pháp và chữ Quốc ngữ bằng cách hoàn chỉnh dần bộ máy giáo dục, đồng thời cải tiến dần chế độ khoa cử và tuyển chọn quan lại của Nam triều song song với việc tăng cường bộ máy cai trị của thực dân, nâng cao những quyền lợi đối với các viên chức trực tiếp do thực dân đào đạo.

- Một sự kiện đầu tiên mang nhiều ý nghĩa biểu trưng là việc xây dựng Nha kinh lược (cơ quan đại diện bù nhìn của triều đình ở Bắc Kỳ) ngay trên nền Trường thi của Hà Nội (7-1886), trung tâm thi cử truyền thống ở Bắc Kỳ đã phải dời xuống Nam Định.

- Ngày 6-6-1898, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đặt thêm một khoa thi phụ cho khoa thi hương ở trường thi Nam Định. Kỳ thi phụ được mở sau kỳ thi hương truyền thống với nội dung có các môn viết tập, chính tả, dịch, hội thoại... từ tiếng Việt, chữ Hán ra chữ Pháp... Người đỗ cả 2 kỳ thi chính và phụ sẽ được ưu tiên ra làm quan trước, đến năm 1903 trở đi thì kỳ thi phụ cũng trở thành bắt buộc. Đến khoa thi hội năm Canh Tuất, triều Duy Tân, thì nội dung thi cho thấy: những kiến thức Hán học (Kinh, Truyện, Bắc sử, Nam sử) chỉ được thi ở kỳ đệ nhất, từ kỳ đệ nhị đến đệ tứ thì đã làm văn bằng Quốc ngữ và nội dung lại chủ yếu là sử Thái Tây, cách trị, địa dư, nhân vật và thời sự... Đồng thời đặt thêm một kỳ thi không bắt buộc bằng chữ Pháp, đề bài do Khâm sứ đặt ra, để cộng thêm điểm vào kết quả cuối cùng (X. Quốc triều đăng khoa lục, Sđd, tr.250-253)

- Ngày 20-6-1903, Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định thành lập Trường Hậu bổ Hà Nội (École d'appentis mandarins) theo chỉ thị của Tổng thư ký Phủ Toàn quyền ký ngày 9-2-1897. Trường đặt dưới sự chỉ đạo của Phòng nhì (2è Bureau) của Phủ Thống sứ Bắc Kỳ với chức năng đào tạo Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo, Giáo thụ cho bộ máy hành chính và giáo dục Bắc Kỳ. Tuyển vào trường là các Cử nhân, Tú tài của nền học cũ (cựu học) hoặc một số con em quan lại cao cấp (ấm sinh), chương trình học trong 3 năm chủ yếu là các kiến thức của Tây học và chữ Quốc ngữ. Khi ra trường, những người tốt nghiệp được ban phẩm hàm từ tòng bát phẩm tới tòng thất phẩm. Đến Nghị định ngày 18-4-1912 thì đổi thành Trường sĩ hoạn (École des Mandarins) với chương trình Hán học bị giản lược rất nhiều, nên muốn được bổ làm quan lại của Nam triều thì phải vào Huế bổ túc thêm về Hán học tại Trường Hậu bổ Huế (được lập theo Đạo dụ này 5-5-1911 của vua Duy Tân). Còn đối với các học sinh ở Trung Kỳ vốn xuất thân từ Hán học thì lại được trang bị thêm "kiến thức cai trị hiện đại". Nhưng rồi đến Nghị định ngày 15-10-1917 của Toàn quyền Đông Dương thì các Trường sĩ hoạn Hà Nội và Hậu bổ Huế đều bị giải thể (từ 1-11-1917 không tuyển sinh nữa) và lập ra Trường Pháp chính Đông Dương (École de Droit et d'Adiminitratinon) chuyên đào tạo các quan "cai trị ngạch Tây": Tham biện các công sở thực dân và các Tri phủ, Tri huyện... Cùng với việc bãi bỏ các khoa thi truyền thống, việc đào tạo thêm quan lại cho triều đình cũng bị bỏ bê. Đến ngày 3-11-1922, Toàn quyền Đông Dương mới ra Nghị định cho phép Khải Định lập Nam triều cao đẳng học đường (École des Hautes Études di Gouvernement Annamite - khai giảng ngày 24-11-1922) do Thượng thư Bộ học đứng đầu, tuyển sinh từ những người tốt nghiệp Trường Pháp chính học thêm 3 năm thì được bổ làm Tri huyện ở Trung Kỳ. Ngoài ra trường còn được giao thêm chức năng "Bảo tồn Nho học" và "Khảo cứu bảo tồn phong tục dân gian". Chương trình học gồm các môn lịch sử, địa lý, Hán văn, lễ chế và mỹ thuật Á Đông. Trường này cũng chỉ tồn tại đến năm 1925 thì bỏ hẳn.

- Cùng với việc làm giảm dần địa vị của Hán học, ở Bắc và Trung Kỳ, chính quyền thực dân đã nỗ lực xây dựng một nền học phổ thông hoàn toàn không liên quan đến nền học truyền thống. Trong khi vẫn để cho các trường làng hoạt động theo nếp cũ, chính quyền thực dân bắt tay xây dựng hệ thống trường Pháp - Việt một cách thận trọng và chắc chắn mà không ào ạt như ở Nam Kỳ. Ngày 2-6-1904 ban hành Nghị định thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp - Việt ở Bắc Kỳ, và một Nghị định tương tự đối với Trung Kỳ cũng được ban hành ngày 30-10-1906. Quan điểm và đường lối giáo dục của thực dân ở Bắc và Trung Kỳ có thể thấy được qua Thông tư ký ngày 1-6-1910 của Thống sứ Bắc Kỳ Simoni khi phân tích về chủ trương châp nhận sự tồn tại trong một thời gian nền Hán học bên cạnh nền học mới, bởi vì trong khi chữ Quốc ngữ chưa đủ chín muồi thay thế hoàn toàn trong việc diễn đạt tiếng nói và tư tưởng của dân bản xứ, thì việc học chữ Nho vẫn là cần thiết đối với người An Nam để khỏi mất liên lạc với văn chương cổ điển và với văn minh Trung Hoa đã là nguồn gốc tổ chức gia đình, xã hội, hành chính, nhiều phong tục, tập truyền, tư tưởng, niềm tin và sau cùng là những lề lối cư xử từ bao thế kỷ cấu tạo đời sống tinh thần và luân lý của họ. Người ta nhận thấy phương thức tốt nhất để truyền bá chữ Quốc ngữ là tạo cho nó một chỗ đứng bên cạnh chữ Nho trong việc ghi chép những tài liệu chính thức và văn thư hành chính. Rõ ràng chúng ta thấy nếu như thái độ đối với Hán học ở Nam Kỳ theo khuynh hướng "đồng hóa" thì ở Bắc và Trung Kỳ, khuynh hướng "hợp tác" được thực thi. Việc đưa Quốc ngữ làm văn tự hành chính chính thức đối với dân bản xứ ở Bắc Kỳ cũng được ấn định trong văn bản ký ngày 1-6-1910.

- Để hoàn chỉnh hơn nữa bộ máy giáo dục của chính quyền thực dân và điều chỉnh những yếu tố bất lợi cho sự phát triển nền giáo dục thuộc địa, ngày 8-3-1906, một Hội đồng hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de Perfectionnement de I'Enseignement indigène) được thành lập để vạch ra chiến lược và những chính sách giáo dục một cách thống nhất trên phạm vi toàn Đông Dương, phục vụ đắc lực cho những mục tiêu thực dân. Tiếp sau đó, lần lượt các Hội đồng ở các kỳ cũng được thiết lập. Hoạt động của các cơ quan này đã dẫn đến việc lập lại ở một mức độ cần thiết việc học chữ Nho ở Nam Kỳ, hoàn thiện bộ máy giáo dục và hệ thống trường sở của thực dân lấy hạt nhân là các trường Pháp - Việt cấp phổ thông, từng bước lấn át, tiến tới xóa bỏ hoặc hoà nhập bộ máy giáo dục Nam triều cũng như các hoạt động giáo dục truyền thống.

- Theo phương hướng này, thực dân đã ép Thành Thái phải cải cách học chính ở Trung Kỳ - Chỉ dụ ngày 31-5-1906 với nội dung lập hệ thống giáo dục theo khuôn mẫu như của giáo dục thực dân, chia làm 3 cấp (ấu học, tiểu học và trung học). Trong đó hạn chế bớt chương trình Hán học và tăng cường Quốc ngữ, tuyển dụng giáo viên phải biết Quốc ngữ... lập các trường Quốc ngữ để những thí sinh thi Hương học như một điều kiện bắt buộc. Hệ thống các học quan của triều đình cũng lần lượt bị bãi bỏ (Bắc Kỳ: Nghị định 18-4-1912, Trung Kỳ: 13-11-1912)...

Nền giáo dục truyền thống, nền Hán học chịu một đòn quyết định khi khoa thi Hương - sự kiện trung tâm của đời sống khoa cử năm 1915 ở Bắc Kỳ và năm 1918 ở Trung Kỳ trở thành khoa thi Hương cuối cùng, báo hiệu nền khoa cử Hán học đã đến ngày cáo chung. Sau này, tờ Nam Phong đã đưa ra một hình ảnh rất sinh động và ngậm ngùi bình luận sự kiện này: "... Năm 1915, bài thi Hương ở Bắc Kỳ tức là hồi trống sau cùng để báo từ nay chợ văn chương thôi không họp nữa, ai còn gồng gánh nặng nhẹ quẩy về mà giở xoay nghề khác. Cứ thực thời gồng nào gánh nấy đã vợi cả rồi, nên nghe tiếng trống tuy không ai vui mà cũng không ai buồn, ai cũng biết rằng buổi chợ này là buổi chợ chiều mà đồ hàng kia không phải là đồ hàng bán được trên thị trường thế giới. Cái thân cử nghiệp bắt đầu chia tay với người Nam Việt từ đấy" (số 12-4-1918, tr.324). Ngày 28-12-1918, Khải Định hạ dụ bãi bỏ khoa cử ở Trung Kỳ và đến ngày 15-5-1919 khoa thi Hội cuối cùng trong lịch sử khoa cử được tổ chức để chọn ra 7 ông nghè (Tiến sĩ)(11) và 16 ông Phó bảng cuối cùng của nền Hán học cũ ở Việt Nam. Và những vị khoa bảng cũng được báo trước là đỗ khoa này chỉ được nhận học vị mà không được bổ vào quan trường, và "bảng vàng" giờ đây đã được thay bằng các tấm văn bằng "tú tài bản xứ".

Gấp rút chuẩn bị cho kế hoạch hậu chiến với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền giáo dục thực dân, nguồn cung cấp quan chức và trí thức cho thuộc địa được hoàn chỉnh bằng bộ Học chính tổng quy (Règlementation général de I'Instruction publique en Indochine) do toàn quyền Sarraut ban hành bằng Nghị định ngày 21-12-1917 áp dụng thống nhất trên toàn Đông Dương. Trong bản "tổng quy" này, địa vị của Hán học chỉ còn là cái bóng mờ nhạt như một môn học "không bắt buộc" cho cấp sơ đẳng tiểu học tức là cấp học thấp nhất kèm theo những điều kiện và sự giám sát chặt chẽ (trường nào muốn dạy chữ Nho phải có sự thống nhất giữa phụ huynh học sinh - Hội đồng kỳ mục và Hiệu trưởng, thầy đồ phải được tuyển chọn cẩn thận, mỗi tuần chữ Nho không học quá một giờ rưỡi vào sáng thứ năm, buổi học phải có sự giám sát trực tiếp của Hiệu trưởng, phương pháp và nội dung giảng dạy phải theo quy định của Tổng thanh tra Học chính). Với các trường tiểu học toàn cấp (École primaire de plein exercice) thì nơi nào muốn học chữ Nho phải được sự đồng ý của cấp tỉnh, phải báo cáo lên Thống sứ, Toàn quyền và nội dung cũng hết sức hạn chế. Với cấp Trung học (năm 1917 cả Việt Nam chỉ có 5 trường) thì trong số 27 giờ rưỡi lên lớp mỗi tuần có 12 giờ tiếng Pháp, 8 giờ cho các môn khoa học dạy bằng tiếng Pháp, còn chữ Quốc ngữ và chữ Nho không được dạy quá 3 giờ rưỡi. Kể từ nay (21-12-1917) tất cả các trường dạy chữ Nho ở Việt Nam (kể cả Quốc tử giám của Nam triều) đều bị xếp vào diện "trường tư" chịu tuân thủ những quy chế riêng cho chính quyền cấp xứ ban hành. Và cuối cùng Học chính tổng quy chỉ cho phép Hán học trở thành một môn "cổ điển" như dân Âu châu đối với môn học "cổ điển Hy - La", nên cho phép bậc Cao đẳng Trung học và Đại học dạy khoa "Cổ văn tự Á Đông" (Human tés Extrême - Orient) với nội dung chủ yếu lại là "văn chương Tàu"(12).

Có thể nói đến đây, nền Hán học ở Việt Nam đã bị chính quyền thực dân hạ bản án khai tử và bị gạt bỏ hoàn toàn ra khỏi dòng văn hóa thống trị xã hội Việt Nam thời cận đại.

Những lợi ích thực dân đã đặt ra cho chính quyền thuộc địa mục tiêu gạt bỏ Hán học ra khỏi đời sống chính trị, văn hóa tư tưởng và hành chính ở Việt Nam. Và nói rằng, thực dân Pháp đã thành công bằng những thủ đoạn thâm độc trên các lĩnh vực ngôn ngữ, hành chính, giáo dục và văn hóa. Chúng ta lên án chủ nghĩa thực dân vì những chủ đích chính trị của việc thủ tiêu Hán học. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng phải nhận thấy rằng cho đến thời đoạn này, nền Hán học cũ ở nước ta đã già cỗi, mất hết sức sống, không chứa tải được nền văn hóa dân tộc lúc này đang đòi hỏi được giải phóng khỏi những ràng buộc cổ hủ để đủ sức theo kịp những biến đổi to lớn của thời đại, cũng như những yêu cầu cấp bách của sự nghiệp phục hưng dân tộc mà trước hết là truyền cho dân tộc sức mạnh văn hóa trong công cuộc giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của chế độ thực dân Pháp. Vì vậy, cùng với việc tìm hiểu những chính sách của chủ nghĩa thực dân Pháp đã bóp chết Hán học như thế nào, chúng ta còn phải nhận thấy ở một khía cạnh khác: nền Hán học cũ quả thật đến lúc này đã trở nên lỗi thời, đã mất dần chỗ đứng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam hiện đại.

CHÚ THÍCH

(1) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. KHXH, H, 1971, tr.415.

(2) Theo sách Quốc triều đăng khoa lục của Cao Xuân Dục (Trung tâm học liệu, S.1974) thì từ 1822 đến 1892 tổng cộng có 30 khoa thi Hội, trong đó có 5 Ân khoa, 23 Chính khoa, 1 Chế khoa, và 1 Nhã sĩ. Chính triều Tự Đức (thời điểm diễn ra cuộc xâm lược của thực dân) lại là thời khoa cử thịnh đạt nhất. Số người trúng tuyển trong các khoa thi này là 506, trong đó có 229 Chánh bảng và 227 Phó bảng. Theo Đại Nam thực lục thì số trường thi thời Nguyễn lúc nhiều ít khác nhau nhưng tựu trung lại một số trường chính như: Gia Định (Lục Tỉnh và Bình Thuận, Khánh Hòa), Nghệ An (Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa), Hà Nội (Hà Nội, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang), Nam Định (Nam Định, Hải Dương, Quảng Yên, Hưng Yên, Ninh Bình) và Thừa Thiên. Theo sách Connâissance du Vietnam của Huard và Durand (EFEO, H.1964, tr.34) thì số thí sinh tham dự các kỳ thi từ 1876 đến 1879 tại trường thi Hà Nội, trung bình là 6.000 người. Về sau nhà nước phải quy định số thí sinh cho từng địa phương (nhiều nhất như Hà Nội, Nghệ An, Nam Định... là 800 người mỗi tỉnh, ít nhất là 50 thí sinh cho các tỉnh biên viễn)...

(3) Câu trích trong bài thơ vịnh khoa thi năm Bính Ngọ (1905) được coi là điển hình của sự suy đồi trong khoa cử.

(4) Đối với Hán học, phái "đồng hóa" (còn gọi là phái "trực trị") chủ trương xóa bỏ hoàn toàn, thay thế bằng tiếng Pháp và nền văn hóa Pháp, còn chữ Quốc ngữ chỉ dùng làm phương tiện giao tiếp của giới bình dân; còn phái "hợp tác" lại giương cao khẩu hiệu dung hợp văn hóa Đông - Tây, chủ trương vẫn duy trì Hán học bên cạnh việc khuyếch trương Tây học, chữ Pháp được nâng lên địa vị chính thống, nhưng chữ Hán vẫn giữ địa vị trong lĩnh vực văn chương và đời sống giới thượng lưu quan lại bản xứ, còn chữ Quốc ngữ chỉ tồn tại trong nền văn học bình dân, trong giáo dục cấp tiểu học của dân bản xứ.

(5) Bouchet - Pétrus Ký, érudit Cochin- chinois. 1925

(6) Trần Văn Giàu: Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam - Tư tưởng yêu nước, NXB Văn nghệ T.P Hồ Chí Minh, 1983, tr.282, dẫn lại.

(7) Xem: J.De Francis - Colonialism and Language Policy in Vietnam. Mouton, Paris - The Hague - New York, 1977, tr.77.

(8) Tờ báo hiện không còn, chỉ được biết đến qua bộ thư mục của Henri Cordeer - Bibliotheca Indosinica, Paris, 1912, tr.1748, được dịch tên báo từ chữ Hán qua chữ Pháp là Bulletin des Communes.

(9) Mười năm sau, ngày 6-4-1887, thực dân ra Nghị định cưỡng bách việc dùng chữ Quốc ngữ trong toàn bộ máy hành chính liên quan đến người bản xứ, đồng thời ra những biện pháp khuyến khích việc biết Quốc ngữ trong bộ máy hành chính người bản xứ, như chỉ tuyển dụng và thăng trật những viên chức có biết Quốc ngữ, từ 1-1-1886, tất cả những người đang tòng sự trong bộ máy hành chính đều phải biết Quốc ngữ. Nghị định ngày 23-7-1879 đặt giải thưởng và trợ cấp cho các quan chức thực dân biết Quốc ngữ. Sau đó có hàng loạt Nghị định khác thúc đẩy quá trình "Quốc ngữ hóa" và xóa bỏ chữ Hán trong bộ máy và hoạt động hành chính khắp các địa phương Nam Kỳ.

(10) Theo Dương Kinh Quốc - Việt Nam những sự kiện 1858-1945, Tập 1, Nxb. KHXH, H. 1981, tr.183.

(11) Các ông nghè cuối cùng trong nền Hán học cũ của Việt Nam là Nguyễn Phong Di (Thanh Hóa), Trịnh Hữu Thăng (Nam Định), Lê Văn Kỷ (Hà Tĩnh), Nguyễn Cao Tiêu (Thanh Hóa), Bùi Hữu Hưu (Thừa Thiên), Vũ Khắc Triển (Quảng Bình) và Dương Thiệu Tước (Hà Đông).

(12) Xem Dương Kinh Quốc, Sđd, tr.251 - 255 và Nam Phong số 12 (4-1917)

TB

NÊN CHĂNG?

BÙI HẠNH CẨN

Những năm gần đây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm rất chú trọng đến vấn đề văn bản học. Điều này được thể hiện rõ nét qua các Hội nghị khoa học và các tập Nghiên cứu Hán Nôm đã xuất bản. Và theo chỗ tôi được biết, hiện nay, Viện đang có những chương trình hoạt động theo hướng này (thực hiện kế hoạch dài hạn). Đây là công việc rất quý, không những với người nghiên cứu Hán-Nôm, mà còn cần thiết cho tất cả bạn đọc nói chung. Vì, công tác văn bản học càng có kết quả bao nhiêu, càng góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử, về học thuật v.v.. của nước nhà. Bằng không, như các đồng chí ở Viện thường nói, cứ để dĩ hư truyền hư mãi thì gay go to. Tất nhiên, chúng ta đều hiểu rằng, muốn đạt được tới chỗ dĩ thực truyền thực, cũng không đơn giản. Nó đòi hỏi phải có điều kiện về các mặt tổ chức, trình độ hiểu biết ngôn ngữ, về hiểu biết chung v.v.. nhất là về tài chính và thời gian. Thậm chí, có những vấn đề đã được bàn bạc, tranh luận khá nhiều, nhưng vẫn phải treo lại đó để tiếp tục công việc chuẩn bị cho tốt hơn nữa.

Là một bạn đọc "không thường xuyên" của Thư viện Hán Nôm, tôi xin nêu một vài trường hợp chỉ muốn minh họa đôi chút chủ trương đúng đắn "phải khẩn trương hơn nữa về công tác văn bản học" của Viện mà thôi. Những điều nêu sau đây, hoàn toàn do suy nghĩ cá nhân. Do đó chắc chắn có thiếu sót, sai lỗi, mong các bạn chỉ bảo cho.

1. Trong cuốn Hương Tích động ký, ký hiệu A.2533 có bài Xuân đường đàm thoại nói về Hồ Xuân Hương. Trong bài có câu "Tuy Ban Siêu chi thư, Sái Cơ chi cầm...". Trên Tạp chí Văn học số 3, 1974, khi giới thiệu bài Xuân đường đàm thoại của Tam nguyên Trần Bích San (1840-1878, hiệu là Mai Nham, quê ở Hà Nam Ninh) cũng in chữ Quốc ngữ là "Ban Siêu chi thư": Nên chăng chữ "Siêu" sửa là "Chiêu". Bởi lẽ, trong đoạn văn, nhắc toàn tên phụ nữ như: Sái Cơ, Tô Muội, Tạ Uẩn, chả lẽ lại đưa một "vị mày râu" vào ở chung. Đành rằng, cả Siêu và Chiêu đều là con Ban Bưu, người đất An Lăng thời Đông Hán. Trong một số Tự vị Trung Quốc đều ghi: Ban Chiêu tên tự là Huệ Cơ, con gái Ban Bưu, học rộng tài cao... người đã tiếp tục hoàn thành những tác phẩm còn dở của Ban Cố như Thiên văn chí trong Hán thư. Một số truyện thơ Nôm của ta thường nói tới "Nàng Ban, ả Tạ..." tức là nói tới Ban Chiêu và Tạ Đạo Uẩn.

2. Trong cuốn Cẩm đường nhàn thoại, ký hiệu VHv.1743 có bài thơ Quá nhị Mỗ hương hoài cảm của Ngô Thì Nhậm, câu thứ 5 có chép "Ngốc nương" (chữ Ngốc viết "khẩu" ở trên, "mộc" ở dưới). Trên Tuyển tập thơ văn Ngô Thị Nhậm, quyển I, xuất bản 1978, cả phần chữ Hán và phần phiên âm cũng đều in là "ngốc".

Nên chăng chữ "ngốc" sửa là "hạo" hoặc "cảo" (chữ "nhật" trên, "mộc" dưới) - Vì các sử sách của ta từ trước tới nay đều ghi con gái Triệu Quang Phục là cô Hạo (hoặc Cảo).

Ngoài ra, phần chú dẫn của Tuyển tập này có ghi "ở địa phận 2 xã Tây Mỗ, Thiên Mỗ ngày nay" và "ở cánh đồng làng Thiên Mỗ, nay có chỗ bia đá, đời trước có đền thờ Nhã Lang". Nên chăng Tây Mỗ, Thiên Mỗ, sửa là "Thượng Mỗ và Hạ Mỗ". Vì theo tôi biết, ở Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng, ngoại thành Hà Nội hiện nay) mới có đền thờ Nhã lang. Đành rằng xa xưa, cả 4 làng Thượng Mỗ, Hạ Mỗ, Tây Mỗ, Thiên Mỗ đều thuộc Từ Liêm. Đó là chưa kể tới việc người được thờ ở Hạ Mỗ cũng không phải tên là Nhã Lang (như một số tài liệu đã đăng báo Hà Nội mới cách đây mấy năm của một số nhà giáo dục như đồng chí Nguyễn Vinh Phúc...).

3. Trong tập Thu cận dương ngôn có bài thơ của Ngô Thì Nhậm, với đầu đề: Tòng giá hạnh Noãn môn quan hải cung ký, nội dung ghi chuyện tác giả theo vua Quang Trung ra chơi ở Eo (tức là cửa Thuận An). Vấn đề này, các dịch giả cuốn Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm cũng như dịch giả cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã làm một việc rất có ý nghĩa, đó là dùng "cửa Eo", chớ không bắt chước các bản dịch trước kia gọi là "của Nhuyễn" hoặc "cửa Noãn".

Nên chăng, có một công trình bước đầu nào đó nghiên cứu việc ghi tên đất (theo kiểu Nôm, nhưng về sau lại quen đọc theo âm Hán - Việt). Trường hợp Kẻ Noi ở huyện Từ Liêm thuộc ngoại thành Hà Nội cũng giống thế. Do ghi Nôm Kẻ Noi, nhưng sau này đọc theo âm Hán Việt lại là Cổ Nhuế, và trở nên thông dụng tới bây giờ. Những trường hợp tương tự trên khắp đất nước có thể còn nhiều.

4. Trong cuốn Phượng sơn từ chí, ký hiệu VHv.1740 (Long Cương tàng bản), về phần Hải Dương phong vật có đoạn chép Quận He Nguyễn Hữu Cầu... người Lôi Động... sức khỏe hơn đời..." nhưng tới cuối có chép "Phạm Sư Mạnh viết" nghĩa là ông Phạm Sư Mạnh nói rằng: "Quận He là nhân vật kiệt hiệt của nước Nam...".

Nên chăng sửa là "Phạm Thị viết" (có thể và thế kỷ XVIII trở đi, lại có người tên Phạm Sư Mạnh chăng?) Vì Phạm Sư Mạnh là người thời nhà Trần, nghĩa là sống trước Quận He Nguyễn Hữu Cầu mấy trăm năm. Cùng quê, cùng thời với Quận He có Phạm Đình Trọng tức Hải tướng quân, người đã đánh bại Nguyễn Hữu Cầu. Nhất là, cũng trong sách này, ngay đoạn trên đó có chép chuyện Phạm Đình Trọng.

Tôi xin có một kiến nghị nhỏ: Nếu có điều kiện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm hàng tháng có thể xuất bản loại Thông báo khổ 19x22cm, dày khoảng mươi trang (in Sêlen cũng được) bán lấy tiền. Nội dung chủ yếu cung cấp tư liệu về các hoạt động mọi mặt về Nôm - Hán trong và ngoài nước. Thông báo này, chủ yếu cung cấp những tư liệu (nhằm để tham khảo) về văn bản học, đặc biệt là những sách hiện đang lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kể cả những tác phẩm Hán Nôm đã được phiên dịch và xuất bản một hoặc nhiều lần.

Dưới những thông tin này có ký tên, để tăng cường ý thức trách nhiệm của người cung cấp. Những thông tin này có thể là những gợi ý cho các đề tài tranh luận kế tiếp. Để phù hợp với thực tế, Viện có thể thành lập một kiểu "Hội đồng Giám định", nhằm giúp đỡ chọn lọc loại sách, những cuốn sách Hán Nôm nào nên đọc trước để phát hiện những trường hợp cần sửa chữa, giới thiệu những người đọc giúp sách (có chế độ thù lao phân minh) và làm nhiệm vụ giám định. Có thể vấn đề này không nhất trí trong Hội đồng Giám định này thì tiếp tục làm sáng tỏ thêm./.

TB

VÀI NÉT VỀ SỐ ẤN ĐỒNG Ở VIỆN
BẢO TÀNG LỊCH SỬ

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Đối với công tác nghiên cứu giải mã các văn bản Hán Nôm, việc tìm hiểu nghiên cứu về ấn triện là đề tài trực tiếp liên quan đến việc giải mã các văn bản có mang ấn triện.

Để thực hiện đề tài nghiên cứu đó, được sự giúp đỡ của cơ quan chủ quản, chúng tôi đã có dịp bước đầu giới thiệu đối với những ấn triện bằng đồng khắc chữ Hán hiện có ở Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam. Tại đây chúng tôi đã tiến hành giám định ngoại hình ấn và rập được những con dấu nguyên vẹn nói chung ít bị sứt sẹo. Số lượng ấn đồng còn lại trong kho là 14 quả, trong đó có 11 quả to và 3 quả nhỏ. Về ngoại hình chúng đều có chung một kiểu, trên ấn không chạm trổ hình gì đặc biệt. Cán ấn tuy to nhỏ, cao thấp, tròn dẹt khác nhau nhưng đều làm theo kiểu chuôi vồ, một chiếc làm kiểu tay quai và 3 quả nhỏ làm theo dạng như quả cân (hình thang). Bề dày mặt quả dầy nhất là 1.5cm và nhỏ nhất: là 0,5 cm. Chiều cao quả cao nhất là 9cm và thấp nhất là 2,2cm. Kích thước quả lớn nhất cỡ 8x8cm và quả nhỏ nhất cỡ 1,9x1,9cm. Hình dấu có 3 cái hình chữ nhật, còn tất cả đều là hình vuông. Bên ngoài mép làm theo khung đường viền, loại to đậm để nét đậm và loại nhỏ để nét mảnh. Tự dạng ấn đều được khắc bằng chữ Triện, một dạng chữ vuông vức và một dạng chữ mềm cong.

Về niên đại được khắc trên ấn, tổng số 10 (trên 14 quả) có khắc ghi niên đại ở phần bên trên quả ấn (trong đó có 2 quả phải xác định lại). Ba quả đời Mạc ký hiệu: LSb2529 ghi năm Đại Chính 5 (1534); LSb2531 ghi năm Cảnh Lịch 2 (1549), LSb2530 ghi năm Thuần Phúc 3 (1564). Năm quả đời Nguyễn ký hiệu: LSb2526 ghi năm Minh Mệnh 3 (1822), LSb2528 ghi năm Minh Mệnh 12 (1831), LSb2522 ghi năm Minh Mệnh 15 (1831), LSb2524 ghi năm Minh Mệnh 16 (1835), LSb2418 ghi năm Thiệu Trị thứ nhất (1841). Quả bị mờ chữ đầu có ký hiệu LSb2527 có khả năng là năm Thịnh Đức (1656). Một quả chỉ ghi năm Tân Hợi, mang ký hiệu LSb2525 có thể là năm Quang Trung 4 (1791). Bốn quả còn lại ký hiệu: LSb2519, LSb2520, LSb2521,và LSb2523 không được ghi niên đại.

Trong số 14 quả ấn đồng này có 5 quả ghi trọng lượng, chúng đều thuộc triều Nguyễn. Ba quả ấn nhà Mạc và 1 quả mờ (Thịnh Đức), có ghi cơ quan sản xuất ấn: "Thượng bảo ty tạo".

Bố cục chữ trong dấu sắp xếp vẫn theo kiểu viết chữ Hán: từ trên xuống dưới và từ phải sang trái; có nhiều dạng bố cục, khi giới thiệu từng quả xin trình bày rõ.

Ba quả ấn nhà Mạc là những quả ấn có niên đại cổ hơn cả. Quả mang ký hiệu LSb2529; ngoại hình cán chuôi vồ dẹt, chiều cao 9 cm và dầy 0,8 cm. Trên ấn phía bên trái khắc 6 chữ "Đại Chính ngũ niên nguyệt nhật": (大 正 五 年 月 日) Bên phải khắc 2 dòng chữ liền nhau, dòng ngoài mờ chữ đầu còn 5 chữ: "hải hậu sở chi ấn" (海 後 所 之 印). Dòng bên cạnh khắc 4 chữ "Thượng bảo ty tạo" (尚 寶 司 造) Dấu hình vuông cỡ 7,5x7,5cm chữ Triện, xếp theo chiều dọc 3 hàng 6 chữ(1).

5 3 1
6 4 2

Như vậy niên đại đã được ghi rõ là năm Đại Chính 5 (1534) đời Mạc Đăng Doanh. Giải mã là 6 chữ: "Hoành hải hậu sở chi ấn" (横 海 後 所 之 印 ).

Những chữ khắc trên cũng giúp cho việc giải mã chính xác, và việc giải mã chữ cũng giúp ra tìm ra chữ bị mờ là chữ "Hoành". Tạm dịch là: "Ấn của viên quan hậu sở"(2) thuộc Hải quân nhà Mạc.

Ấn thứ hai, ký hiệu LSb 2531, ngoại hình cũng cán chuôi vồ dẹt, cao 9 cm và dầy 0,7cm. Trên ấn bên trái niên đại đề năm Cảnh Lịch 2 (1549) đời Mạc Phúc Nguyên. Bên phải dòng ngoài khắc 6 chữ "Thanh tái tả sở chi ấn" (清 塞 左 所 之 印) dòng bên cũng khắc 4 chữ "thượng bảo ty tạo". Dấu hình vuông cỡ 7,7x7,7cm, chữ Triện xếp theo chiều dọc 3 hàng 6 chữ (như dấu trên): là 6 chữ "Thanh tái tả sở chi ấn", tức là ấn của viên quan Tả sở Thanh tra các vùng biên tái (Xem ảnh 2).

Ấn thứ 3, ký hiệu LSb2530 cán chuôi vồ tròn, cao 9 cm và dầy 0,6 cm. Trên ấn bên trái ghi năm Thuần Phúc 3 (1564) đời Mạc Mậu Hợp. Bên phải khắc 9 chữ hơi bị mờ, riêng chữ thứ 7 mờ hết nét "Khuông trị vệ Lăng Xuyên tiền [sở] chi ấn" (匡 治 衛 凌 川 前 所 之 印 ) dòng bên khắc 4 chữ "Thượng bảo ty tạo". Dấu hình vuông cỡ 8x8. Chữ Triện xếp theo chiều dọc 3 hàng 9 chữ. Những chữ khắc trên tuy bị mờ nhiều và một chữ mất hẳn cũng giúp cho việc giải mã được chính xác và việc giải mã cũng giúp ta khẳng định những chữ mờ và tìm ra chữ mất hẳn là chữ Sở(3). Như vậy 9 chữ mờ dấu là: "Khuông trị vệ Lăng Xuyên tiền sở chi ấn", là ấn của viên quan Tiền sở Lăng Xuyên, thuộc vệ Khuông Trị (quân đội nhà Mạc). Bốn chữ "Thượng bảo ty tạo" của 3 quả ấn này đều giống nhau cho biết chúng đều được sản xuất ở một nơi là Ty thượng bảo.

Thời kỳ này nhà Mạc đang xây dựng và củng cố chính quyền riêng, tăng cường thế lực quân sự, chiến đấu với những lực lượng đối lập. Những chiếc ấn này của chức quan thuộc về quân sự, nó cũng giúp ích thêm cho việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử lúc đó.

Triều Nguyễn với số lượng ấn nhiều hơn, xin giới thiệu 5 quả ấn đã ghi niên đại (Tạm xếp theo thứ tự niên đại).

Quả có ký hiệu LSb2526, cán chuôi vồ trên to dưới thuôn, cao 6,5cm và dầy 1,5cm. Phía trên ghi năm Minh Mệnh 3 (1822) và khắc 4 chữ "Vũ khố phụng tạo" (武 庫 奉 造 ) Nơi sản xuất ấn là Vũ khố. Dấu hình vuông cỡ 6x6cm, viền ngoài đậm 0,5cm với 4 chữ triện xếp kiểu vuông góc. Đó là 4 chữ "An lập huyện ấn" (安 立 縣 印). Tức là dấu hành chính huyện An Lập(4).

Quả thứ 2, ký hiệu LSb2528, cán chuôi vồ thắt đáy, cao 7cm và dầy 1,2cm. Phía trên ghi năm Minh Mệnh 12 (1831) và ghi trọng lượng nặng 12 lượng, 5 tiền, 3 phân. Dấu hình vuông cỡ 7,5x7,5cm, viền ngoài đậm 1cm, 8 chữ triện xếp theo 4 hàng dọc "Hưng hóa Bố chính sứ ty chi ấn" (興 化 布 政 使 司 之 印) nét chữ hơi cong mềm, khuôn chữ nhỏ và dài để cân đối với bố cục dấu hình vuông. Đây là dấu quan Bố chính sứ trấn Hưng Hóa(5).

Quả thứ 3, ký hiệu LSb 2522: Đây là quả ấn đồng duy nhất có cán kiểu tay quai, cao 3,5cm và dầy 1,2cm. Niên đại ở dấu ghi năm Minh Mệnh 15 (1834), trọng lượng ghi nặng 7 lượng, 3 tiền, 6 phân. Dấu hình chữ nhật cỡ 5,8x4,3cm, viền ngoài nét nhỏ 1mm với 5 chữ triện xếp theo bố cục dấu nhân (x) chữ thuôn dài, riêng chữ ở giữa (3) dài gấp 2 lần những chữ kia, thể hiện bố cục cần đối lấp chỗ trống, 5 chữ "Kỷ Sơn thừa đồ ký" (祈 山 丞 圖 記 ). Đây là dấu Huyện thừa huyện Kỳ Sơn(6).

4 1
5 2

Quả thứ 4, ký hiệu LSb2524, cán chuôi vồ thắt dây, cao 7cm và dầy 1,2cm, trên dấu ghi năm Minh Mệnh 16 (1835) nặng 12 lượng. Dấu hình chữ nhật cỡ 7,8x4,8cm viền ngoài đậm 0,3cm, 8 chữ triện "Hưng Hóa phó lãnh bình quan quan phòng" (興 化 副 領 兵 關 防) xếp theo chiều dọc 3 hàng (2 chữ) ở giữa dài gấp rưỡi những chữ kia là dấu của quan phó lãnh binh trấn Hưng Hóa

Quả thứ 5 ký hiệu LSb2418, cán chuôi vồ thắt dây, cao 7cm và dầy 1,3cm. Ghi năm Thiệu Trị thứ nhất (1811), nặng 12 lượng. Dấu hình vuông cỡ 6x6cm, viền ngoài đậm 0,5cm, 4 chữ triện: "Hạ Hồng huyện ấn" (下洪縣印). chữ xếp kiểu hình vuông, giống quả LSb2526. Đây là dấu hành chính huyện Hạ Hồng(7)

Quả ấn phải xác định lại niên đại mang ký hiệu LSb2527 cán chuôi vồ dẹt, dưới to trên nhỏ dần, cao 8,5cm và dầy 1cm. Dấu hình vuông cỡ 6,5x6,5cm. Trên ấu phía bên trái đề 6 chữ (mờ chữ đầu) " ?? Đức tứ niên nguyệt nhật" ( … 德 四 年 月 日) bên phải dòng ngoài bị mờ, dòng trong đề 4 chữ "Thượng bảo ty tạo". Chữ đầu niên đại bị mờ, qua nét chữ còn lại cộng với việc xác định 15 trường hợp niên đại có chữ thứ 2 là "đức" chúng tôi thấy có khả năng đây là chữ "Thịnh Đức" (盛 德). Năm Thịnh Đức thứ 4 là năm 1656 đời Lê Thần Tông. Ty thượng bảo vẫn tồn tại ở thời kỳ Hậu Lê, đấy là nơi sản xuất ra quả ấn này. Ấn có dấu hình vuông cỡ 6,5x6,5cm, viền ngoài để đậm 0,5cm, 4 chữ triện xếp theo hình vuông cỡ 2,4x2,4cm, khắc vuông vức rõ nét, đó là 4 chữ "khâu xuyên chi ấn" (丘 川 之 印). "Khâu Xuyên" là sông Khâu có thể là sông Khâu Ôn(8) mà người ta lấy chữ Khâu Xuyên làm địa danh những vùng đất có sông Khâu chảy qua và một trong những quận vương nào đó được phong đất ở địa hạt này. Khả năng đây là dấu của chức quan coi địa hạt vùng Lạng Sơn.

Quả ấn mang ký hiệu LSb2525 niên đại ghi không rõ, cán chuôi ngắn to tròn, dưới thuôn dần. Cao 4,5cm và dầy 0,9cm. Dấu hình chữ nhật, cỡ 9,6x6,2cm trên ấn phía bên phải khắc chữ "Tân Hợi niên đông tạo" (辛 亥 年 冬 造 ) và 10 chữ bên trái "Suất trung lương nhị vệ tam hiệu Trung lang tướng" (率 忠 良 二 衛 三 校 中 郎 將). Việc xác định niên đại quả ấn này không dễ dàng, vì có nhiều năm Tân Hợi. Qua những tư liệu có được với nhận xét sơ bộ chúng tôi thấy các con dấu thời Lê, Mạc và Nguyễn chữ cuối cùng trong dấu thường dùng chữ ấn (印), quan phòng (關 防). Đồ ký (圖 記)... ngay cả trong quân sự. Riêng thời Quang Trung không dùng. Tại phòng trưng bày ở Viện Bảo tàng lịch sử, có một quả ấn đồng thời Tây Sơn được ghi là đúc năm Quang Trung thứ 4 (1791) với 9 chữ khắc trên mặt "Suất hùng cư quan hệ ngũ hiệu đô ty". Về ngoại hình, độ mòn cũ và kiểu chữ khắc trên dấu giống như quả ấn ký hiệu LSb2525 này. Do đó năm Tân Hợi ghi trên ấn có khả năng là năm Tân Hợi niên hiệu Quang Trung 4 (1791), ấn được đúc vào mùa đông năm đó. Dấu có viền ngoài để đậm 0,7cm, chữ Triện uốn theo hình chữ nhật 3 hàng 10 chữ. Việc giải mã thuận lợi do được những chữ khắc trên ấn, dùng để so sánh 10 chữ triện của dấu là 10 chữ khắc ở trên: "Suất trung lương nhị vệ tam hiệu Trung lang tướng". Đây là dấu của viên Trung lang tướng ở hiệu quân thứ 3, vệ thứ 2 hàng trên Suất Trung lương (trong đội quân của Quang Trung Nguyễn Huệ).

Bốn quả ấn đồng còn lại không được ghi niên đại. Quả có ký hiệu LSb2523 chỉ ghi trọng lượng nặng 15 lượng, chiều cao 5,5cm và dầy 1,5cm. Dấu hình vuông cỡ 6,5x6,5cm. Qua ngoại hình ấn cộng với chữ ghi trọng lượng và hình thức dấu nói chung giống những quả ấn triều Nguyễn trên, nên chỉ có thể xác định ấn thuộc về đời Nguyễn. Ba quả ấn còn lại có ký hiệu LSb2519, LSb2520, LSb2521 là những quả ân nhỏ hình thang (4 cạnh) có cùng chiều cao 2,2cm, mặt trên cỡ 1,3x1,3cm, mặt dưới cỡ 1,9x1,9cm. Chữ dấu 2 quả bị mờ, còn 1 quả rõ hơn là dấu hình vuông cỡ 1,9x1,9cm, 2 chữ triện xếp theo bố cục chiều ngang là 2 chữ An Lập (安 立). Đây là dấu rút gọn của ấn "An Lập huyện ấn" (安 立 縣 印)... LSb2526 đã trình bày ở trên hai chữ "huyện ấn" đã được lược đi. Như vậy niên đại của ấn này cũng được xác định một cách tương đối, chắc chắn nó có niên đại khoảng năm Minh Mệnh thứ 3 (1822). Hai quả ấn nhỏ kia có ngoại hình kích thước và kiểu chữ triện giống như ấn này, nên chỉ có thể khẳng định chúng được làm ra ở triều Nguyễn.

Liên quan đến số ấn đồng mà chúng tôi giới thiệu trên đây, tại viện Bảo tàng Lịch sử còn có một quả ấn ngà duy nhất, ký hiệu LSb463/GI.253 về ngoại hình giống 3 quả ấn đồng nhỏ, phía trên không ghi niên đại. Dấu hình vuông cỡ 2,5x2,5cm, viền ngoài nét nhỏ 1mm, 4 chữ triện "Hưng Hóa Án sát" (興 化 按 察). Như quả ấn đồng nhỏ đã nói trên, đây cũng là con dấu rút gọn của ấn lớn "Hưng Hóa Án sát sứ ty ấn" (興 化 按 察 使 司 之 印 ) tức là ấn của quan Án sát sứ(9) trấn Hưng Hóa.

Số ấn gỗ có nhiều nhưng vì là ấn gỗ nên nhiều cái bị vỡ dập, sứt mòn, đem in lại thì nhiều chữ bị mờ nhòe. Những dấu ấy đều không ghi niên đại, hơn nữa độ tin cậy của những con dấu gỗ ấy ra sao thì còn phải nghiên cứu thêm, trong bài này chúng tôi chưa đề cập đến.

N.C.V

CHÚ THÍCH

(1) Dạng bố cục chữ trong dấu, chúng tôi sắp xếp theo kiểu như trên, để sau này tiện cho phân loại. Đơn cử 1 dấu, các dấu tiếp theo sẽ không kẻ ô số nữa.

(2) (3) Từ đời Lê Thánh Tông trở về sau, trong biên chế quân đội dùng chế độ Vệ 衛 , Sở 所 .

(4) An Lập hay Yên Lập thuộc tỉnh Phú Thọ cũ nay là Vĩnh Phú.

(5) Quan Bố chính sứ xem về việc Hộ, dưới chức quan Tổng đốc.

(6) Dưới chức quan lớn, thường là các quan nhỏ như phần phủ Huấn đạo... dùng lấy chữ Kiềm ký hoặc Đồ ký.

(7) Địa danh Hạ Hồng thường biết với tên phủ (Phủ Hạ Hồng là phần đất phía đông nam trấn Hải Đông xưa, ở đây tác giả gọi là Hạ Hồng huyện (?) (Lời của người biên tập).

(8) Sông Khâu Ôn sau đổi thành sông Kỳ Cùng, thuộc tỉnh Lạng Sơn.

(9) Án sát sứ là viên quan đứng thứ 3 trong tỉnh coi về Hình ngục.

TB

HOÀNG CÁC DI VĂN - MỘT BỘ SƯU TẬP CÁC VĂN KIỆN ĐỜI LÊ CÓ GIÁ TRỊ

HOÀNG VĂN LÂU

Kho sách Hán Nôm Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn giữ được hai bộ sách cùng có tên là Hoàng các di văn. Bộ Thư mục Hán Nôm(1) lần lượt giới thiệu hai bộ sách đó ở Tập I, phần I (số sách 620, tr.165) và tập II, phần II (số sách 887, tr.284). Cả hai bộ sách đều sưu tập những văn kiện có tính chất Nhà nước, nhưng mỗi bộ có nội dung và phạm vi sưu tập khác nhau. Bộ Hoàng các di văn (số 620, tr.165, tập I, phần I) có một bản, chữ viết tay, ký hiệu A.2137, 330 trang khổ 26x15cm. Sách gồm 3 quyển, sưu tập những văn kiện thuộc 3 đời Gia Long, Minh Mệnh và Thiệu Trị triều Nguyễn, do Ngô Thế Vinh biên tập và viết tựa vào năm Thiệu Trị 7 (1847)(2).

Bộ Hoàng các di văn còn lại (số 887, tr.284, phần II, tập II) hiện tồn tại dưới dạng 4 bản chép tay, mang các ký hiệu VHv.1129/1-8; A.1910; A.543; VHv.127, là bộ sưu tập những văn kiện quan phương dưới triều Lê - Trịnh, bao gồm khoảng thời gian gần 300 năm, từ đời Lê Lợi (1418-1433) đến năm Lê Cảnh Hưng (1740-1786). Bộ này là đối tượng giới thiệu của chúng tôi dưới đây. Trong 4 văn bản trên, bản VHv.1129/1-8 có nhiều nội dung hơn cả. Bản này gồm 8 tập, 1152 trang khổ 26x15cm, chữ thảo, sách đã cổ, giấy nhiều chỗ mủn.

Tập I: Phần Tiên, biểu có 42 bài biểu khải của các quan trong triều ngoài trấn làm trong các dịp như: Mừng điện Lam Sơn hoàn thành (năm Thuận Thiên 1428-1433), mừng thọ vua, hoàng hậu, hoàng phi, mừng thắng trận… Có 1 bài khải Nôm của các ông Lê Hy, Nguyễn Đăng Đạo, Đặng Đình Tướng, Nguyễn Quý Đức, Phạm Quang Trạch làm vào năm Bảo Thái (1720-1729).

Phần Sở, luận có 6 bài, trong đó có sớ của các ông Phan Thiên Tước, Lương Nguyên Phúc làm năm Thiệu Bình (1434-1439), 2 bài sớ của Mạc Đăng Dung, 1 bài luận của Nguyễn Hữu Trung thôn Đại Nại, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa viết vừa Hán, vừa Nôm, và bài luận của Ngô Thì Sĩ gồm 321 câu lục bát Nôm, điều trần kế sách xây dựng quân đội, phát triển kinh tế.

Tập II: Giản trái, có 44 bức thư trao đổi giữa triều Lê với triều Minh Trung Quốc (vào những năm Tuyên Đức, Thiên Thuận, Thành Hóa) trong đó có 36 bức thư lấy danh nghĩa Lê Lợi gửi vua quan nhà Minh.

Tập III: Thi liên, gồm khoảng 2000 câu đối trang hoàng các công trình kiến trúc triều đình, như Nội điện Đông cung 26 câu, Lượng quốc phủ 26 câu, điện Sảnh Thiên 4 câu, cung Tây Hồ 6 câu, cung Đống Đa 22 câu…

Các tập IV, V, VI và VII là Trướng văn, sưu tập thơ của các quan trong triều, ngoài trấn mừng các quan đại thần về hưu, như các ông Nguyễn Công Thái, Lê Hữu Kiều, Lê Trọng Thứ, Hà Tòng Huân, Đồng Tồn Trạch, Nguyễn Đình Trụ, Vũ Công Đạt, Ngô Khuê, Nguyễn Quang Trạch, Nguyễn Song Thanh, Nguyễn Hoãn… Phần này có tới hàng nghìn bài thơ của hàng trăm tác giả, có 1 số bài thơ Nôm.

Tập VIII: Văn tế: Lê Lợi tế các vua nhà Trần, đều niên hiệu Thiên Khánh (niên hiệu của Trần Cảo); Lê Thánh Tông tế Lê Lợi, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông; Trịnh Tùng tế trời, đất, các vua Lê, thần Núi, Sông và danh tướng các đời. Có 2 bài văn tế Nôm: 1 bài tế bà chính phi họ Nguyễn, soạn năm Cảnh Hưng hai bốn (1763) và 1 bài tế các tướng sĩ chết trận.

Hai bản A.543 (264 trang, khổ 32x22cm) và A.1910 (232 trang, khổ 30x27cm) là bản sao của trường Viễn Đông Bắc cổ Pháp, chưa rõ sao chép từ bản nào, nội dung thiếu nhiều. Nhưng hai bản này có 2 phần Cáo Dụ Chế sách mà bản VHv.1129 không có(3).

Phần cáo dụ có: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi; 3 bài dụ làm trong dịp xuất quân của Lê Thánh Tông; cáo lên ngôi của Thuận Đức; sắc dụ, chỉ dụ của vua Lê, chúa Trịnh gửi các đại thần, tướng hiệu, các quan trấn lộ và phủ huyện về việc đánh dẹp trị an, ban thưởng… cáo dụ của tướng Hoàng Ngũ Phúc hiểu thị Trại trưởng Nguyễn Nhạc và hiểu dụ nhân dân Thuận Hóa và Quảng Nam.

Phần Chế sách gồm những quyết định về phong tặng, truy tặng, ban thưởng của vua Lê chúa Trịnh cho quần thần.

Bản VHv.127 là sách của Thư viện Long Cương, bản này chép 2 “tác phẩm”: Phần đầu là Minh lương cẩm tú, một tập thơ xướng họa giữa Lê Thánh Tông và quần thần; Phần sau là Lê triều Hoàng các di văn, sưu tập Thần đạo bi Mộ chí của các công chúa Xuân Minh, Cẩm Vinh, Ý Đức, Thiều Dương, Cẩm Hương, bà Kinh phi họ Nguyễn, bà Minh phi cung Thụy Đức, vua Tương Dực…

Như vậy là, cả 4 bản hiện còn giữ được, không bản nào đầy đủ. Tổng hợp nội dung 4 bản trên, chúng ta sẽ có bộ sưu tạp các văn kiện đời Lê, gồm các thể loại sau:

Cáo, dụ, chế, sách;

Tiên, biểu, luận, sớ.

Thi liên (câu đối).

Trướng vưan (chủ yếu là thơ).

Văn tế.

Mộ chí, Thần đạo bi.

Bộ Hoàng các di văn này lần đầu tiên được cụ Trần Văn Giáp giới thiệu khi tìm hiểu Nguồn gốc các văn kiện Quân trung từ mệnh mới phát hiện(4). Tiếp đó, Nguyễn Văn Nguyên khi viết Về hai nhóm văn bản Quân trung từ mệnh tập hiện còn cũng nhắc tới bộ Hoàng các di văn và lưu ý độc giả “giá trị tham khảo quan trọng” của nó đối với công tác hiệu khám, chỉnh lý và dịch thuật tác phẩm Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi(5). Tạp chí Hán Nôm số 1/1986 công bố bài Bình dân luận của Ngô Thì Sỹ do Nguyễn Tá Nhí phiên Nôm và chú thích; người phiên chú cho biết tác phẩm Binh dân luận được trích từ Hoàng các di văn nhưng không có phần giám định về văn bản.

Nhà thư tịch học Trần Văn Giáp khi giới thiệu văn bản Hoàng các di văn đã có nhận xét: “Nhiều chữ húy lớn đời Lê thì không thấy kiêng… nhiều chữ húy đời Minh Mạng, Tự Đức cũng đều thấy viết nguyên dạng… Sách này có thể là một bản sao chép theo một bản cổ lắm chứa trong cung đình thời Nguyễn Trãi chẳng ai lục ra làm gì. Sách có thể được sao chép lại vào hồi sau khi nhà Lê đã mất, hoặc dưới triều Tây Sơn, hoặc dưới triều Gia Long… cho nên người ta không kiêng chữ húy Lê Lợi mà cũng không kiêng chữ húy đời Minh Mạng, Tự Đức”(6).

Dưới đây, chúng tôi xin nêu những suy nghĩ bước đầu về đặc điểm biên tập, năm biên tập và tác giả của bộ sách này.

Trước hết, về tên tác phẩm: Thư mục Hán Nôm ghi là Hoàng các di văn; hai tác giả Nguyễn Văn Nguyên và Nguyễn Tá Nhí đều dẫn theo Thư mục Hán Nôm. Cụ Trần Văn Giáp trong sách đã dẫn, ghi là Hoàng Lê Hoàng các di văn. Xét kỹ các văn bản, nhất là 8 tập của bản VHv.1129 đều ghi là Hoàng các di văn. Có một vài bản có thêm các chữ như “Hoàng Lê”, “Lê triều”, nhưng các chữ này viết nhỏ hơn 4 chữ tên sách, lại viết ở gáy sách, không cùng lúc với chính văn, nghĩa là các chữ Hoàng Lê, Lê triều do người sau thêm vào, có lẽ để phân biệt với bộ Hoàng các di văn của triều Nguyễn(7).

Hoàng các di văn có nghĩa là “Những văn kiện còn giữ lại được ở Hoàng Các”. Đặt tên sách là Hoàng các di văn chứng tỏ khi biên tập sách, tác giả được tiếp xúc với những “di văn” ấy và “Hoàng Các”, nơi lưu giữ “di văn” ấy vẫn còn. Sau khi nhà Lê mất, dưới triều Tây Sơn, hoặc dưới triều Gia Long thì không còn “Hoàng các” của nhà Lê và những di văn triều Lê có còn sót lại cũng không được lưu giữ ở Hoàng các của triều đại mới nữa. Chỉ thấy không kiêng chữ húy của Lê Lợi và chữ húy đời Minh Mạng. Tự Đức mà cho là sách được biên tập vào đời Tây Sơn và Gia Long là không ổn. Bởi vì nhà Lê, từ Lê trung hưng về sau, qui định kiêng húy không còn chặt chẽ nữa. Bằng chứng là bộ Đại Việt sử ký toàn thư khắc in năm Chính Hòa 18 (1697) cũng không thấy kiêng húy Lê Lợi(8).

Xét đặc điểm biên tập, có một điều dễ nhận thấy: Người biên tập làm công việc sắp xếp, hệ thống hóa lại (theo thể loại) những văn kiện còn giữ được. Trong mỗi thể loại, lại chú ý sắp xếp theo trình tự thời gian. Mỗi bài, đều giữ lại y nguyên dạng văn kiện của nó. Như những thư từ trao đổi giữa Lê Lợi và vua quan nhà Minh, đều giữ nguyên dạng công văn ngoại giao: câu mở đầu xưng tên người gửi: “Tri phủ Thanh Hóa Lê Lợi…” hoặc “Đầu mục nước An Nam là Lê Lợi kính gửi…”, cuối mỗi bức thư ghi “ngày tháng, năm niên hiệu Tuyên Đức”, bài Văn tế của Lê Lợi tế các vua nhà Trần, để niên hiệu Thiên Khánh là niên hiệu của Trần Cảo. Phần trướng văn, các đại thần về hưu đều không ghi tên mà ghi họ và đầy đủ chức tước của người đó, như “Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Suy trung dực vận công thần, tham tụng Lễ bộ thượng thư kiêm Đông các hiệu thư gia thăng Hộ bộ thượng thư, thiên bái Kiền quận công Nguyễn đài công trí sỹ”. Dưới mỗi bài thơ mừng cũng ghi đầy đủ tên họ và chức tước của tác giả. Chính thái độ biên tập thận trọng này đã tạo nên giá trị của bộ sách(9).

Từ đặc điểm trên, có thể nghĩ là khi biên tập bộ Hoàng các di văn, mục đích của tác giả là chỉnh lý và bảo tồn những văn kiện còn giữ lại được ở Hoàng các (dưới dạng sách) và bản thân tác giả cũng phải có một vị trí trọng yếu trong Hoàng các(10) mới có điều kiện lục tìm những văn bản cổ “từ thời Nguyễn Trãi”…

Vậy thì, sách được biên tập vào khoảng thời gian nào? Những văn kiện có niên đại muộn của sách là: Bài bi ký của Phan Trọng Phiên soạn năm Cảnh Hưng 32 (1771) bài Binh dân vận của Ngô Thì Sỹ dâng lên Trịnh Sâm khoảng năm 1770-1780. Như vậy thời gian biên tập sớm nhất không trước năm 1770. Nhà Lê chấm dứt khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc lần thứ 2 đại phá quân Thanh năm 1789 (từ đây không còn Hoàng các, và tổ chức lưu trữ văn kiện (di văn) của triều đình nhà Lê nữa). Như vậy, thời gian biên tập muộn nhất không sau năm 1789.

Cũng có thể xét thêm: Từ năm 1770-1782 là thời gian Trịnh Sâm đang nắm quyền. Những văn kiện có liên quan đến Trịnh Sâm (như Binh dân luận…) còn đang trong quá trình thực thi hoặc để chúa xem xét, chưa có khả năng trở thành đối tượng “lưu trữ” (di văn). Mặt khác, từ năm 1786 đến năm 1789 là giai đoạn đầy biến động ở Bắc Hà nói chung và kinh thành nói riêng, các tập đoàn thống trị liên tiếp tiêu diệt lẫn nhau, chưa có một ông Tể tướng nào ở lâu trong Hoàng các quá vài tháng, do vậy Hoàng các di văn cũng không có khả năng ra đời trong khoảng thời gian này. Như vậy, thời gian biên tập bộ Hoàng các di văn còn lại là khoảng thời gian từ năm 1782 đến năm 1786.

Từ năm 1782 đến năm 1786 có hai người giữ chức Tể tướng, nắm quyền ở Đông các. Đó là Nguyễn Khản và Bùi Huy Bích. Nguyễn Khản là bậc phong lưu đại thần, nhưng chỉ ở ngôi Tể tướng có 2 tháng, chưa thi thố được gì, khó mà nghĩ đến việc chỉnh lý văn bản cổ(11). Bùi Huy Bích làm Tể tướng ngay từ khi Trịnh Khải lên ngôi chúa cho đến khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc lần thứ nhất. 5 năm nắm quyền ở Hoàng các (1782-1786) ông Tham tụng họ Bùi này “không làm được việc gì” về chính sự, nhưng lại có công khá lớn trong việc giữ gìn và chỉnh lý nền văn hiến cổ(12). Nhiều công trình sưu tập chỉnh lý văn hiến cổ của họ Bùi vẫn còn giá trị tới ngày nay. Chúng tôi nghĩ rằng, những công trình tuyển tập văn thơ của họ Bùi còn lại, là hệ quả của công việc giữ gìn chỉnh lý những văn kiện và tài liệu cổ khi ông coi việc ở Hoàng các. Cũng vì thế, chúng tôi cho rằng: Hoàng các di văn là công trình biên tập văn kiện và tư liệu lưu trữ ở Hoàng các nhà Lê, gắn với ông Tể tướng đứng đầu Hoàng các một thời gian khá dài là Bùi Huy Bích, hay ít nhất cũng được biên tập theo chủ trương của Bùi Huy Bích.

Công lao của người biên tập là hệ thống hóa và chỉnh lý những văn kiện và tư liệu còn lưu trữ được ở Hoàng các, biên tập thành sách, lưu lại cho đời sau. Sau nhiều biến động lớn (quân Thanh kéo vào Thăng Long, Quang Trung cả phá quân Thanh, Gia Long tập kích kinh đô Phú Xuân) những văn kiện của triều đình nhà lê bị thất lạc hầu hết. Chính nhờ các công trình biên tập kiểu như Hoàng các di văn và sách vở sao chép khác, những văn kiện ấy mới lưu giữ được đến ngày nay. Từ bộ Hoàng các di văn, chúng ta biết rằng, cho đến những năm 1782-1786, Bình Ngô đại cáo cùng nhiều văn kiện ngoại giao của Nguyễn Trãi vẫn còn được lưu trữ dưới dạng văn kiện ban đầu của nó, rằng nhiều tác phẩm quan trọng và nhiều tác giả thời Lê chỉ được tìm thấy ở Hoàng các di văn(13).

CHÚ THÍCH

(1) Thư mục Hán Nôm, Thư viện Khoa học xã hội, H. 1969, bản in Rônêô.

(2) Nội dung của sách gồm: Chiếu dụ, cáo, sắc soạn trong các dịp Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị lên ngôi, hoặc vào ngày sinh vua, thái hậu, chiếu ân xá, ban thưởng, chiếu đi kinh lý ở Cao Miên, sắc mệnh truy tôn Gia Long, suy tôn Thái hậu, lập Hoàng hậu, phong bách thần, phong mỹ tự cho Lý Trần Quán, Ngô Thì Sỹ, chiếu cầu phong… Biểu, khải, tấu của các quan mừng vua, Thái hậu, biểu tạ ơn, tấu của đình thần về việc chia hạt đặt quan chức, của trấn Lạng Sơn về việc bố phòng, tờ tấu về việc soạn xong bộ Thực lục… Công văn (tư, lục) về mở khoa thi, về tang lễ… Văn tế khi rước thần chủ Gia Long vào nhà Thái miếu… Bia ghi sự tích Gia Long… thư Gia Long gửi vua Miến Điện… Có thể thấy Thư mục Hán Nôm tóm tắt: “(Sách tập hợp) những bài văn có tính chất chính trị và lịch sử vào khoảng cuối Lê, triều Tây Sơn và triều Nguyễn” là không phù hợp với nội dung của sách (Phần I, tập I, tr.165).

(3) Hai bản A.543 và A.1910 này về nội dung và số lượng văn kiện sưu tập cũng có khác nhau.

(4) Xem Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, thư viện Quốc Gia xuất bản, H. 1970 tr.57.

(5) Nguyễn Văn Nguyên: Về hai nhóm văn bản Quân trung từ mệnh tập hiện còn, Nghiên cứu Hán Nôm 2/1985.

(6) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Sđd., tr.57.

(7) Cũng vậy, bộ Hoàng các di văn của triều Nguyễn (A.2137) cũng có hiện tượng “thêm vào” hai chữ Nguyễn triều có lẽ để phân biệt với bộ Hoàng các di văn đời Lê.

(8) Xem thêm Phan Huy Lê: Về niên đại bản in Nội các quan bản của Đại Việt sử ký toàn thư, Tạp chí khoa học Ngữ văn - Lịch sử số 1/1985.

(9) Xin lưu ý là hai bản sao chép sau này A.543 và A.1910 không thể hiện đầy đủ tinh thần nghiêm túc ấy.

(10) Hoàng các là nơi làm việc của Tể tướng. Phủ Tể tướng (Hoàng các) có bộ phận lưu trữ những văn kiện có tính chất Nhà nước. Có thể nghĩ rằng những chiếu, dụ, chế, sách của vua chúa, những biểu, khảo, tấu của các quan cùng những công văn, giấy tờ, hoặc văn thơ thù lạc của các đại thần, sau khi đã “thực thi” thì đưa về lưu trữ ở Hoàng các.

(11) Nguyễn Khản trước làm Tả thị lang sung chức Bồi tụng, sau được đổi là Trấn thủ Sơn Tây, kiêm Trấn thủ Hưng Hóa. Khi xảy ra vụ án năm Canh Tý, Khản bị bắt giam. Đến khi Trịnh Tông (Trịnh Cán) lên ngôi, Khản được phục chức rồi được làm Tể tướng. Nhưng chỉ được hai tháng, kiêu binh nổi loạn, Khản phải bỏ chạy về Sơn Tây (theo Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, H. 1970).

(12) “Chúa (Trịnh Khải) mới lập nên, Tứ Xuyên hầu liền bị bãi chức, quan Bồi tụng Bùi Huy Bích lên thay chân và được phong làm Kế liệt hầu. Nay Kế liệt hầu vẫn một mình giữ ngôi Tham tụng (Tể tướng)” (Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr.91).

(13) Bộ Hoàng các di văn đến nay không còn được trọn vẹn nữa Bản VHv.1129/1-8 có thể là bản sao vào loại sớm nhất, nhưng cũng bị mất khá nhiều. Sau này, có những bổ sung mới, như A.1910, A.543 bổ sung thêm phần Cáo dụ chế sách, đáng tiếc, người sao chép không ghi rõ nguồn bổ sung thêm được một số Mộ chí Thần đạo bi, bản này sao chép cẩn thận nhưng cũng không ghi xuất xứ văn bản./.

TB

BÀI VĂN TẾ VỢ CỦA NGUYỄN CAO

PHAN VĂN CÁC

Năm nay, chúng ta kỷ niệm lần thứ 100 ngày mất (1887-1987) của Nguyễn Cao - ông Tán Cách Bi, như nhân dân đương thời quen gọi. Quê ông thuộc huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh (nay là Quế Võ, Hà Bắc).

Ông là bậc chí sĩ yêu nước nổi tiếng đất Hà Bắc ngày trước, từng lãnh đạo nghĩa quân chống lại thực dân Pháp khi chúng xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873) và lần thứ hai (1882). Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn lại cử ông giữ chức Tán lí quân vụ Bắc Kỳ.

Trong một trận chiến đấu ở Gia Lâm, ông bị trúng đạn giặc Pháp, trọng thương ở ngực. Về sự kiện này có hai câu thơ nổi tiếng tràn đầy nghĩa khí:

Thỉ thạch hữu thương vong khước thống,
Chỉ duyên khóai ý tại thôn Dương.

(Trúng đạn bị thương quên nhức nhối,
Chỉ vì khóai chí nuốt quân Tây).

Bị giặc bắt, ông giữ vững khí tiết. Trong ngục, ông chửi mắng quân thù không ngớt, tự tay rạch bụng mình trước mặt chúng. Giặc toan chạy chữa, nhưng ông kiên quyết tuyệt thực, cuối cùng cắn lưỡi mà chết. Ông chết trong tư thế hiên ngang của người dũng sĩ.

Ông còn là thi sĩ giàu cảm xúc, tác giả của Trác Phong thi tập gồm ngót trăm bài thơ văn (hiện lưu giữ tại nhà một người cháu ông).

Tiểu sử và một phần thơ đã được giới thiệu trong Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX(1) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam(2).

Dưới đây xin trân trọng giới thiệu thêm bài văn tế vợ của ông do chúng tôi sưu tầm và phiên dịch(3). Với những hạn chế không thể tránh khỏi của tư tưởng “tam cương ngũ thường” trong khuôn khổ ý thức hệ Nho giáo của tác giả, và của hình thức thể loại văn tế, bài văn vẫn toát lên nỗi đau chân thành, niềm yêu quý thiết tha và lòng biết ơn sâu sắc của Nguyễn Cao đối với người bạn đời đáng kính. Bài văn cũng giúp ta hiểu thêm con người tác giả, một con người tình nghĩa thủy chung, cao thượng. Khía cạnh “đời thường” này càng bổ sung trọn vẹn hình ảnh một Nguyễn Cao với khí phách dũng sĩ và tâm hồn thi nhân mà hai cảm hứng chủ đạo trong thơ là cảm hứng anh hùng yêu nước thiết tha và cảm hứng nhân đạo thương dân sâu sắc từng được ghi nhận trước đây.

Phiên âm:

TẾ LÊ PHU NHÂN CHẤT KHANH VĂN

Hoàng triều Kiến Phúc nguyên niên tuế thứ Giáp Thân thất nguyệt sóc hậu nhị nhật.

Giang thục tiếp phó văn, ai phu mỗ khốc, soái chư môn đệ thao văn trì quy.

Cáo vu cố thất Lê thị hiệu Chất Khanh cung nhân chi linh:

Ô hô! Nhân sinh tại thế, đại mộ nan thần, triệu lộ dị hi.

Lao sinh tức tử, thùy phi hóa nhi.

Nhi hà dụng thiếu tứ liên nhi, câu câu thử vi?

Ta ta! Phu phụ vi thiên luân thường, tử sinh vi nhân biệt ly.

Tự phi Thái Thượng chi vong tình, Mông Trang chi tức ky (cơ).

Phù an đắc nhi bất khốc khốc hĩ, nhi bất thân tư, kim tích truy duy.

Ta dư thiếu cô, tam tứ tuế bất tỉnh hỗ trì,

Huynh đệ duy tỉ nhất nhân, đề huề phủ dục duy tổ mẫu thị y.

Thập tuế nhi tổ mẫu thệ, ân cần giáo hối duy chư thúc thị phụ thi sư.

Niên thập bái vị dư trạch phối, bốc khanh kỳ nghi.

Khanh dĩ khoa hoạn tiết nghĩa chi môn.

Thời dư hàn khổ, tao gia trung vi.

Quans dư hàn khổ, tao gia trung vi

Quán dư sinh thất, phụ mẫu trợ dĩ cao hỏa chi tư

Huynh đệ súc dĩ tu tiến chi kỳ.

Tự dư li gia viễn học, tật bệnh yêm tri.

Khanh quy cô cư, sổ duyến chi ốc, bán cung chi trì.

Tuế thời phục lạp, phụng tần tảo dĩ trai thi.

Niên nhị thập bát nhi sinh tử Hào, ngũ bá nhất hoạch, thương hùng hủy chi đa khi.

Tòng đầu tân khổ, đại loại như tư.

Dư lạm điêu nhất đệ, tự phận sơ chuyết, khóa đồng tứ nghiệp, ngoại vô tha doanh;

Khanh diệc an dư chi chuyết, tri dư chi bệnh, cung phương dục tử, do phù tích chi thực bền nhi cư ti.

Lợi đồ nhiệt tiến, toàn vô nhất ngữ cập chi.

Tự dư tòng sự nhung trường, can qua tặc địa, lũ tàn ư nguy

Khanh vị sự quân trí thân, nhân thần chi phận, vị thường xuất môn nhi khiên y.

Dư lịch hoạn xá, khanh tại gia trị, Lạng Giang sổ nguyệt, miễn cưỡng tương tùy.

Hà vô, hà hữu, vị thường cáo dư dĩ doanh tư.

Khanh ngộ phong thấp, lũy niên vu tư.

Tiệm thành cô tật, bách dược nan y.

Dư thường tự thân, lạm dự vi quan, ký bất năng tì bị thê tử, sử chí ý phong nhi thực phi.

Chí ư dược nhu thường nhĩ, hữu thời nhi đa khuy.

Khanh vị thi mệnh thị số, tuy bệnh bất đáo ngọa sàng bất khởi, do năng túc hành nhi thủ trì.

Hạnh thiên giả chi niên, kiến tử thành lập, dĩ hoạch tạ ki vinh thi.

Diệc thường thể Mạnh thi đoạn cơ chi giáo, nhi khải dư dĩ Uyên Minh trách tử chi từ.

Ta ! Khanh tính phác thực, duyên hoa phất sức.

Tuy vị cảm như cổ chí Khương Cơ Lai phụ, Hoàn ung Mạnh mi.

Nhi bần thả bệnh, khanh vô giao trích, như Bắc môn thất nhân chi thi.

Sở vị “Vô vi phu tử”, vô phi vô nghi.

Tương giới chi nghĩa, tín nhiên kỳ thứ ki (cơ)

Kim niên chính nguyệt nhật, nhân gia cư phất tĩnh, dư phụng nhạc mẫu di Nhã Nam thành; Khanh tùy thần tịch, tỉnh thị đinh vi.

Nhiễu nhất cá nguyệt, thành trì hốt phi.

Bão tôn huề ấu, vạn nan thiên nguy.

Khanh phụng mẫu bắc phản, dư tị địa nam trì.

Vi thần vi tử, đương thử bất hạnh, bất năng kháng tiết, hoàng khủng đãi tội, bão u ưu nhi lệ thùy.

Khứ nguyệt nhật, dư văn thúc mẫu dữ đường hôn chi tang, kim hựu văn khanh chi tang, vị năng tức phản cố lí, khốc ư ki mộ, điện ư kì tẩm, thử trung đại hữu bất hoạch dĩ, hà cảm minh minh nhi ngứ thùy.

Ta ta! Khanh bệnh, dư bất cập thi kì được, thần bất cập kì liệm, hựu bất cập kì biệt nhi vi vĩnh quyết chi từ.

Tình hà năng dĩ, du du thiên lí, đồ lâm văn nhi lệ huy.

Tuy nhiên thử thi thử ngộ, bách ưu bách li.

Thùy họa thùy phúc, thùy minh thùy si ?

Thùy trinh thùy hối, thùy tòng thùy vi?

Thùy hiểm nhi di, thùy toàn nhi huy?

Thùy đông nhi vinh, thùy xuân nhi ùy?

Thùy ngư nhi chiểu phục, thùy hàn nhi thiên phi?

Nan khả dĩ thường định nhi lí suy.

Bất như vô sinh, thiêu hoa hà bi?

Bất như cửu tử, liêu nga hà tư?

Sinh hà túc tín, từ hà túc nghi?

Khanh tử yên chi, dư sinh đồ nhi.

Vãng hà khả gián, lai hà khá truy?

Nhi kim nhi hậu, dư tương thùy quy?

Đỗ môn khóa tử, bất phục tri hữu hạng ngoại sự; dĩ vô thất thần tiết, dĩ toàn tiên thế chi di; dĩ vô quý ư khanh bình sinh tương khuyến tương quy.

Chất giả, chất dã; Khanh do Tế quân chi vị dã. Dư nhân khanh bình sinh tính chất, hiệu quân vi Chất Khanh. Dẫn văn dĩ, khấp, cửu tuyền kì tri ?

Ô hô! Y hi!

Bài dịch:

VĂN TẾ VỢ (HỌ LÊ, HIỆU LÀ CHẤT KHANH

Năm Giáp thân niên hiệu Kiến Phúc thứ 1 triều Nguyễn (1884) ngày mùng ba tháng bảy. Ở nhà tư thục đất Kim Giang, nhận được thư nhà cáo phó, kẻ “ai phu”(4) này khóc rồi dẫn các môn đệ, cầm bài văn đi vội về nhà cáo với linh hồn người vợ đã qua đời, họ Lê, hiệu là Chất Khanh cung nhân(5) như sau:

Than ôi ! Người sống ở đời, chiều rồi khó quay lại sáng, sương mai thì dễ tan đi.

(Đã biết) Sống vất vả mà chết nghỉ ngơi, có việc gì không bởi Hóa nhỉ(6)?

Mà sao còn khóc lóc, nước mắt đầm đìa, khư khư tục lệ làm chi?

Than ôi! Vợ chồng vốn luân thường thiên đạo, tử sinh là nhân thế biệt li.

Vốn không như Thái Thượng(7) quên tình, như Mông Trang(8) dứt nhẽ, thì làm sao mà không khóc khóc, than than, truy niệm nỗi xưa, nay.

Than ôi! Ta từ nhỏ mồ côi, ba bốn tuổi không còn cha mẹ, không anh em chỉ một người chị ruột mà thôi.

Công nâng niu ôm ấp, thảy nhờ bà nội phù trì.

Ta lên mười thì bà nội mất, ân cần dạy bảo có các chú làm cha, làm thầy.

Năm ta mười tám, hôn phố chọn người.

Bói được khanh tốt số đẹp đôi.

Khanh nếp nhà khoa hoạn, tiết nghĩa hơn người.

Bây giờ ta đói rét, vận nhà đang buổi suy đồi.

Cho ta gửi tể, cha mẹ cấp dầu đèn học tập: anh em giúp ta tiến hẹn kì.

Từ xa nhà trọ học, ta đau lâu ốm chầy.

Khanh về chốn cũ, một mảnh ao con, vài gian nhà cỏ, mà hoa quả tảo tần đơm cúng, khi tết nhất giỗ chạp đúng kỳ.

Năm hai tám tuổi, sinh được thằng Hào, năm lần gieo một lần được gặt, sinh đẻ nhiều mà nuôi được hiếm hoi.

Tình đầu cay đắng, đại loại thế thôi.

Ta may một khoa cập đệ, tự biết mình vụng dại, về mở trường dạy trẻ, không kinh dinh gì nữa khác ngoài.

Khanh cũng yên nỗi ta vụng khờ, biết thân ta có bệnh, chăm lo kéo sợi nuôi con, vẫn như xưa ăn khổ ở tồi.

Bon chen mưu lợi, tịnh không hề nhắc đến một lời.

Từ ta theo việc nhung trường, giáo gươm đất giặc, lắm phen nguy kịch đến nơi.

Khanh rằng: Bỏ mình thờ chúa, là phận của kẻ làm tôi.

Ta ra cửa, khanh chưa hề nắm áo kéo lui.

Ta trải nhiều quan xá, khanh ở nhà lo liệu mọi bề.

Ở Lạng Giang vài tháng, khanh gắng gỏi theo đi.

Dẫu trong nhà thiếu đủ, khanh chưa hề xui ta lo việc riêng tây.

Khanh bị phong thấp, đã nhiều năm rồi.

Dần thành cố tật, chữa mãi không thôi.

Ta thường than thở: Lạm dự quan trường, đã không nuôi được vợ con, cho ăn ngon mặc ấm, mà đến thuốc men trong cơn đau ốm, cũng đành thiếu thốn lắm khi.

Khanh bảo rằng mệnh rằng số, dẫu ốm đau, chưa đến nỗi liệt giường liệt chiếu, sức vẫn còn tay nắm, chân đi.

May ra trời cho còn tuổi, được thấy con thành đạt, thì nhờ con vinh hiển có ngày.

Cũng thường học Mạnh mẫu dạy con từng chặt đôi khung cửi(9) mà nhắc ta Uyên Minh giáo tử(10), khanh khéo lựa lời.

Ôi! Tính khanh thật thà mộc mạc, chẳng vòng cổ hoa tai.

Dẫu chưa dám sách Khương Cơ, Lai Phụ, nàng Hoàn, thím Mạnh(11) xưa kia.

Nhưng đã nghèo lại ốm, khanh chưa hề than trách, như người cửa Bắc(12) trong.

Kinh thi.

Chữ rằng “chớ trái lời chồng”, chẳng thể nào chê.

Cái nghĩa cùng nhau răn bảo, khanh hầu được lời.

Tháng giêng năm nay, bởi nhà ở chẳng yên, ta rước nhạc mẫu lên thành Nhã Nam, khanh theo hầu sớm tối, săn sóc màn the.

Vừa được tròn một tháng, bỗng thất thủ thành trì.

Ẵm cháu thơ dắt con trẻ, thật là muôn khó nghìn nguy.

Khanh đón mẹ lên Bắc, ta chạy giặc vào Nam.

Làm tôi làm con, phải khi bất hạnh, không liều mình giữ tiết, thấp thỏm chờ tội, ôm mối sầu u mà nước mắt tuôn rơi.

Tháng trước, ta nghe tang bà thím với nhà thân gia, nay lại nghe tang khanh, chưa thể về ngay làng cũ, khóc khanh trước mộ, cũng ở giường thờ, trong đó có điều đại bất đắc dĩ, dám đâu bày tỏ cùng ai !

Than ôi! Khanh lâm bệnh, ta không kịp chăm thuốc men khanh nhập quan ta không kịp lo khâm liệm lại không kịp nói lời vĩnh quyết lúc phân li.

Tình chẳng thể nguội, xa xôi nghìn dặm, luống những đọc văn than thở, gạt lệ ngậm ngùi.

Này thời, này cảnh, trăm mối bời bời

Ai họa, ai phúc? Ai sáng, ai si?

Ai trinh, ai hối? Ai thị, ai phi?

Ai cheo leo mà bình thản? Ai toàn vẹn mà nát rời.

Ai ngày xuân mà héo hắt? Ai mùa đông mà nỡ tươi?

Ai như cá chúi sâu dưới vực? Ai mọc cánh mà bay lên trời?

Khó lấy điều thường định mà xét suy.

Chẳng bằng không sống, cái thân tầm gửi sao mà thương bi?

Chẳng bằng chết sớm, đọc thơ Liêu Nga(13) mà nghĩ gì?

Sống sao đủ tin, chết sao đủ nghi?

Khanh chết là yên nghỉ! Ta sống mà làm chi?

Đi không thể cản, đến không thể vời.

Nay rồi sau nữa ta biết theo ai?

Đóng cửa dạy con, không biết đến việc ngoài ngõ nữa? Để được toàn tấm thân mẹ cha để lại? Để không sai lỗi đạo làm tôi?

Để không hổ lời khanh khuyên nhủ lúc sinh thời?

“Chất” là chất phác; chữ “khanh” như chữ “tế quân”(14). Ta nhân khanh một đời chất phác, đặc hiệu khanh là “Chất Khanh”.

Dẫn văn mà khóc, chín suối có hay?

Than ôi! Hỡi ôi! Thương thay!

CHÚ THÍCH

(1) Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1900), Nxb Văn học, Hà Nội, 1970 (xb lần I); 1976 (xb lần II có sửa chữa).

(2) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, t.IV (1858-1920), Q.I (in lần II có sửa chữa bổ sung), Nxb Văn học, HN, 1984.

(3) Xem thêm: Trịnh Nhu – Phan Văn Các Bài tự thuật của Nguyễn Cao, một tư liệu lịch sử có giá trị, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5/1896 và Phan Văn Các, Hai bài thơ đặc sắc của Nguyễn Cao, Tạp chí Văn học, số 2/1987.

(4) Ai phu: người đàn ông có vợ mới chết.

(5) Cung nhân: vốn là một chức vua phong cho vợ các quan tứ phẩm.

(6) Hóa nhi: con tạo, trẻ tạo (chỉ tạo hóa)

(7) Thái Thượng: Thái Thượng lão quân, cách Đạo gia tôn xưng Lão Tử, Học thuyết của Lão tử chủ trương “vong tình” chẳng hạn trong các mệnh đề: “Thánh nhân hậu kỳ thân nhi thiên tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn” (bậc thánh nhân để thân ra sau mà thân ở trước, để thân ra ngoài mà thân đặng còn), từ đó mà coi sống chết là lẽ thường.

(8) Mông Trang: Trang tử (tên Chu) người ở đất Mông, sống vào khoảng cuối thế kỷ IV đầu thế kỷ III trước CN. Sử chép khi vợ chết, Trang ngồi vỗ bồn mà hát chứ không khóc. Ông quan niệm rằng “người ta vốn không sinh, không hình, không khí. Sinh hình khí tử có khác nào xuân hạ thu đông, bốn mùa vận hành” và “người chế là đã nghỉ yêu trong ngôi Nhà Lớn, nếu tôi còn cứ than khóc, chẳng hóa ra tự tôi không thông mệnh ư. Nên tôi không khóc” (Trang Tử, ngoại thiên, Chí Lạc).

(9) Đoạn cơ chi giáo: mẹ Mạnh Tử thấy Mạnh Tử bỏ học về nhà bèn cắt khung cửi mà bảo: con đi học mà không chuyên cần thì không thành tài được, khác nào khung cửi bị cắt ngang, chẳng được việc gì (cũng nói: “đoạn chức”, cắt khung dệt).

(10) Uyên Minh: Đào Tiềm, tự là Uyên Minh, người đời Tấn, tính tình cao khiết, dạy con rất nghiêm.

(11) Khương Cơ: vợ Chu Tuyên vương, khéo khuyên chồng chăm lo chính sự; Lai Phụ: vợ Lai Chu, hiền thần của vua Thang; nàng Hoàn: tức Hoàn Thiếu Quân, vợ Bảo Tuyên đời Đông Hán; Thím Mạnh: tức Mạnh Khương Nữ, vợ Phạm Kỉ Lương đời Tần Thủy Hoàng, đều là những người vợ hiền trong sử sách xưa.

(12) Thơ Bắc Môn trong Kinh Thi, làm người hiền sống vào thời loạn, than thân nghèo khổ, đói rét.

(13) Liêu Nga: tên một thiên trong Tiểu nhã Kinh Thi, là lời người hiếu tử than thở không được phụng dưỡng cha mẹ đến chết.

(14) Tế quân: Vợ (Hán thư Đông Phương Sóc truyện, có người chú rằng Tế Quân là tên vợ Phương Sóc. Theo Xưng vị lục, thì “Tế quân” là nàng hầu, thiếp)./.

TB

VÀI NÉT VỀ HAI QUẢ CHUÔNG THỜI TÂY SƠN TẠI SÀI SƠN HÀ SƠN BÌNH

THÙY VINH

Theo sách Đại Nam nhất thống chí, phần Sơn xuyên Tự quân, ở Sài Sơn có 2 chùa được nhắc đến: Thiên Phúc và Đỉnh Sơn. Chùa Thiên Phúc là chùa to nhất ở dưới chân núi Sài Sơn, chùa Đỉnh Sơn là chùa ở trên chót núi. Hai quả chuông mà chúng tôi giới thiệu dưới đây được đặt ở gác chuông hai chùa trên. Ở bài này chúng tôi tạm qui ước: quả chuông đặt ở chùa Thiên Phúc gọi là chuông I, quả chuông đặt ở chùa Đỉnh Sơn gọi là chuông II.

Chuông I: Đặt ở gác chuông chùa Thiên Phúc. Chiều cao (từ đáy chuông đến đỉnh rồng làm quai treo) là 1,5m. Chu vi của chuông là 2m. Bề mặt chuông được chia làm 4 ô đều nhau, mỗi ô rộng 0,45m. 4 ô này được chia làm 2 phần chính, phụ. Phần chính ở trên cao 0,70m, phần phụ ở dưới cao 0,2m. Khoảng cách giữa 2 ô là hoa văn và 4 núm tròn rộng 0,2m. Phần còn lại là đáy chuông. Tất cả 4 ô chuông đều khắc kín chữ, chữ chân phương, khắc sâu, dễ đọc. 4 ô trên khắc bài ký và minh, 4 ô dưới ghi tên tuổi những người đóng góp tiền. Chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai, Giáp Dần (1794).

Chuông II: Hiện treo ở gác chuông trên đỉnh núi chùa Đỉnh Sơn. Chuông II bị rạn nứt khá nhiều, chữ bị rêu phù bụi bám phải cạo đi mới đọc được. So với chuông I thì chuông II có kích thước bằng ½. Bố cục bề mặt của chuông cũng giống như chuông I, được chia làm 4 ô đều nhau, có 2 phần chính, phụ, ngăn cách bằng hoa văn trang trí. Phần chính trên là 45cm, phần phụ dưới là 12cm, bề rộng của mỗi ô là 32cm, chu vi của chuông là 1,4m. Qua treo đúc hình rồng. Chiều cao của chuông là 0,8m. Được khắc kín chữ cả 4 ô: ô 1 của chuông ghi một bài ký, ô 2, ô 3 và một nửa ô 4 ghi tên những người đóng góp tiền của ở thôn Thiên Phúc, tổng Lật Sài. Nửa ô 4 còn lại ghi niên đại đúc chuông và tên người soạn ký, người viết chữ, khắc chữ. Đáng tiếc là ở quả chuông này, niên đại đúc chuông đã bị đục, chỉ còn lại mấy chữ “… tuế tại Bính Thìn mạnh hạ cốc nhật”, 4 ô phụ ghi tên tuổi khách thập phương quyên góp tiền.

VỀ VĂN BẢN ĐƯỢC KHẮC TRÊN HAI CHUÔNG

Bài ký ghi trên chuông I do Phan Huy Ích - nhà quân sự, ngoại giao của triều Tây Sơn soạn. Phần ghi tên người soạn ký của chuông I ghi: “Dực vận công thần sắc thụ Đặc tiến Thượng đại phu Thị trung lang ngự sử kiêm Hành Bắc trấn Hình bộ sự Thụy Nham Hầu Phan Huy chi Dụ kính soạn”. Không hiểu vô tình hay cố ý mà người khắc chữ đã khắc thiếu tên và hiệu của Phan Huy Ích (ở đây khoảng cách ở phần ghi tên Phan Huy không có vết đục). Nhưng phần ghi tên những người quyên góp tiền để đúc chuông thì tên Phan Huy Ích lại được ghi đầy đủ ở hàng đầu: “Thị trung ngự sử Phan Huy Ích…”. Chúng ta đều biết Phan Huy Ích hiệu là Dụ Am, tước là Thụy Nham Hầu, là quan Thượng đại phu thị trung lang ngự sử “kiêm Hành Bắc trấn Hình bộ” v.v… do đó khiến người đọc không thể lẫn ông với bất cứ ai khác, mặc dù kiểu ghi tên lơ lửng kia. Bài ký do Phan Huy Ích soạn khoảng 1500 chữ, chiếm hết ¾ ô chính của chuông. Chúng tôi xin tóm tắt nội dung bài ký như sau:

Mở đầu bài ký tác giả cho biết tại vùng Sài Sơn vào thời Lý Nhân Tông có một nhà sư tu hành và đắc đạo ở đây tên là Từ Đạo Hanh. Ông đã mở mang thiền viện, sáng lập đạo trường, cùng với các thiện nam tín nữ quanh vùng quyên góp tiền của để đúc một quả chuông vào năm Kỷ Sửu. Long Phù Nguyên Hóa thứ 19 (1109). Nhà chùa lại đón đệ tử là sư Thích Huệ Hưng về soạn bài ký để khắc trên chuông. Bài ký dài vài nghìn câu và một bài minh viết theo lối 4 câu 2 vần, văn chương rất bóng bẩy đẹp đẽ. Việc trông coi và viết chữ vào chuông là do viên quan tên là Nghiêm Thường, tự là Thúc Do, làm quan đến chức “Trực lang bí thư sảnh trước tác thượng kỵ đô úy”, được ban tước “Phi củ ngư đại” thực hiện. Chuông đúc được 7 năm thì Từ Đạo Hạnh mất. Trải qua các triều Lý, Trần, chùa vẫn được bảo vệ tốt. Đến khi nhà Hồ tiếm ngôi, giặc Minh sang xâm chiếm, nhà Lê lấy lại được nước… quả chuông đó vẫn còn nguyên vẹn. Vào năm Kỷ Dậu, Quang Trung thứ 2 (1789), khi đó việc binh đã yên, những quân lính tự do thấy ở các chùa, quán có đồ đồng đều thu về để đúc tiền cả, do vậy quả chuông nhà Lý cũng cùng chung số phận. Sau đó vài năm, dân trong tổng Lật Sài, huyện An Sơn, phủ Quốc Oai, thấy chùa vắng tiếng chày kinh, lại vốn yêu mến tiếng chuông mới. Đến mùa hạ năm Giáp Dần thì đúc xong. Bấy giờ dân trong tổng mới đến xin Phan Huy Ích soạn cho một bài ký để khắc trên chuông. Phan Huy Ích có làm một bài minh kèm theo bài ký. Bài Minh dài 14 câu, viết theo lối thất ngôn. Khi kết thúc bài ký và bài minh, Phan Huy Ích tỏ lòng muốn chuông này cũng sẽ được tồn tại dài lâu như chuông nhà Lý(1).

Niên đại của chuông ghi: “Hoàng Nguyễn triều đệ nhị đế Cảnh Thịnh vạn niên chi tái, tuế tại Giáp Dần, mạnh hạ, cốc nhật” (triều Hoàng Nguyễn, vua thứ hai Cảnh Thịnh năm thứ hai, ngày lành, giữa mùa hạ năm Giáp Dần).

Người viết chữ để khắc vào chuông là hương biểu Doãn Huy, người thôn Phú An, xã Thạch Thất (Thạch Thất xã, Phú An thôn, hương biểu Doãn Huy phụng tả).

Người khắc chữ là Nguyễn Tài Trí, người xã Đề Cầu, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An (Thuận An phủ, Siêu Loại huyện, Đề Cầu xã, Nguyễn Tài Trí chủ san).

Phần ghi tên tuổi những người và địa phương quyên góp tiền của để đúc chuông, ngoài những huyện xung quanh như: Quốc Oai, Thanh Oai, Thuận An, Hoài Đức, Đan Phượng… còn có cả những phường ở Kinh đô. Điều đó cho thấy việc đúc chuông I ở chùa Thiên Phúc lúc đó được mọi tầng lớp nhân dân ở các địa phương rất đồng tình ủng hộ.

Bài kỳ ghi trên chuông II do một người tên là Phan Cẩm đỗ tứ trường khoa Giáp Ngọ soạn(2). Niên đại ghi trên chuông đã bị đục, chỉ còn lại 8 chữ dưới: “…tuế tại Bính Thìn, mạnh hạ, cốc nhật”.

Họ tên và quê quán người đúc chuông, khắc chữ cũng như ở chuông I.

Người viết chữ là sư trụ trì tại chùa, tên là Vương Đức Dụ, hiệu là Hải Khóat (trụ trì đại từ Vương Đức Dụ, tự Hải Khóat cẩn thư).

Trước hết phải nói rằng văn bản ở chuông I là một văn bản quí. Bởi vì, được viết dưới triều Tây Sơn, lại do một “cây đại bút” là Phan Huy Ích viết. Nội dung cụ thể, đưa ra những chi tiết lịch sử có ý nghĩa rất chân xác… hình thức thể hiện lại súc tích cô đọng. Cả bài ký toát lên một tấm lòng trăn trở của một trí thức yêu nước, một nhà văn hóa đứng trước truyền thống văn hóa dân tộc đã bị phá hủy… Những tài liệu nghiên cứu về Phan Huy Ích từ trước đến nay chưa nhắc tới bài ký này của ông, thiết tưởng đây cũng là một dịp bổ sung tư liệu để hiểu đầy đủ về một con người đã thức thời, vì vận mệnh của nước mà dốc lòng giúp “người anh hùng áo vải” Nguyễn Huệ.

Trong bài ký, Phan Huy Ích đã cho biết tương đối cụ thể về quả chuông đúc thời Lý. Sách Kiến văn tiểu lục, phần Thiên chương khi ghi chép về “Kim Thạch di văn” từ các đời Lý Trần về sau, Lê Quý Đôn đã nhắc đến đầu tiên quả chuông chùa Thiên Phúc: “… Tôi thu nhặt những văn còn sót lại ở đồ đồng và bia đá được mấy chục bài thì thấy văn thời nhà Lý lối biền ngẫu bóng bẩy, đẹp đẽ, còn giống thể văn nhà Đường (…). Nay đem danh mục chép ra đây để biết đại khái: Bài minh khắc vào quả chuông chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, do thầy chùa là Huệ Hưng soạn, đề năm Nguyên Hóa thứ 9 triều nhà Lý”.

Dịch giả sách này có chú rằng: “Theo sách Cựu thống chí chép là chùa Vạn Phúc ở núi Lạn Kha xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, do Lý Thánh Tông xây dựng". Đề năm đúc chuông nhà Lý, dịch giả chú thêm: "Các vua triều nhà Lý không có niên hiệu Nguyên Hóa. Nhưng xem phần phong vực chép ở dưới thì Nguyên Hóa tức là Long Phù Nguyên Hóa, một niên hiệu của Lý Nhân Tông. Tham khảo sử liệu thì niên hiệu Lý Nhân Tông chỉ thấy chép chữ "Long Phù" mà không có chữ "Nguyên Hóa". Không biết rõ từ thời đại nào sử gia đã bỏ bớt chữ "Nguyên Hóa" đi?" (Kiến văn tiểu lục, Nxb. KHXH, 1977, tr.168).

Trở lại với những cứ liệu mà Phan Huy Ích cho biết về quả chuông nhà Lý, chúng ta thấy rằng: Tác giả đã bổ sung thêm cho khối thư tịch cổ một cách đầy đủ hơn khi nói về chuông nhà Lý. Nếu Lê Quý Đôn chỉ nói sơ sài thì Phan Huy Ích cho biết cụ thể. Người khởi xướng dựng chùa, chuông được đúc với trọng lượng 2000 cân. Bài ký lúc đó dài bao nhiêu câu, viên quan nào viết chữ để khắc, niên hiệu đầy đủ... Như vậy Phan Huy Ích đã nói kỹ hơn Lê Quí Đôn rất nhiều, mặc dù hai ông sống cùng thời với nhau. Có lẽ là vì Phan Huy Ích là người địa phương có chuông, và khi ông viết về quả chuông đó thì nó mới bị mất có vài năm nên những chi tiết ông đưa ra có khả năng chính xác và đầy đủ.

Bài ký trên chuông I cũng góp phần đính chính lại một số hiểu biết chưa chính xác trước đây: chùa Thiên Phúc có chuông đúc thời nhà Lý là ở thôn Thiên Phúc, tổng Lật Sài, huyện An Sơn, phủ Quốc Oai chứ không phải ở núi Phật Tích, huyện Tiên Du, Bắc Ninh như dịch giả sách Kiến văn tiểu lục đã chú thích. Tên núi Phật Tích xuất hiện vào đời Trần. "Sài Sơn ở huyện An Sơn, triều Lý tên là Bồ Đà Sơn" (Đại Nam nhất thống chí, Quốc vụ khanh Sài Sơn xuất bản, tr.72). Như sách đã dẫn, tr.114 viết "Chùa Thiên Phúc ở xã Sài Gòn huyện An Sơn". Vấn đề ghi trong sách và chữ khắc ở chuông hoàn toàn trùng khớp với nhau.

Về văn bản quả chuông II: Điều lý thú là văn bản này cũng nói đến sự kiện đúc chuông năm Giáp Dần: "Đầu năm Giáp Dần toàn tổng ta đã có lời với sư trụ trì ở chùa dưới xin đúc chuông". Tiếp theo, tác giả cho biết chuông II được khởi công đúc vào ngày 21 tháng 4 năm Bính Thìn. Tên địa danh xuất hiện trong chuông II trùng lặp với địa danh ghi ở chuông I. Đó là tên các địa danh xuất hiện ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.

Người khắc chữ, cho cả hai chuông đều là Nguyễn Tài Tri, người xã Đề Cầu, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An. Khoảng cách đúc 2 chuông phải gần nhau thì người đúc chuông mới là một được.

Dòng niên đại cho biết chuông đúc vào "mùa hạ năm Bính Thìn" (chữ bị đục) (tuế tại Bính Thìn, mạnh hạ, cốc nhật). Trong thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX có 3 năm Bính Thìn: 1736, 1796, 1856. Nếu chuông II đúc năm 1736 thì lúc đó chưa có sự kiện đúc chuông năm Giáp Dần có ghi trong chuông. Nếu chuông đúc năm 1856 thì đó là triều Nguyễn Tự Đức (1848-1883), hà tất phải đục niên đại (Đục niên đại, tên tuổi nhà Tây Sơn cùng với tên các văn võ quan cao cấp của vương triều này là cách trả thù hèn hạ của triều đình nhà Nguyễn). Đó là chưa kể khoảng cách trước hoặc sau năm Giáp Dần ở 2 thời điểm 1736 và 1886 đều hơn 60 năm. Liệu người thợ đúc chuông, khắc chữ có sống thêm được ngần ấy thời gian để đúc quả chuông thứ hai nữa hay không? Và nếu còn, ắt hẳn không đủ sức để làm công việc đó.

Ngoài những chứng cứ về văn bản thì mô típ trang trí, cách bố cục trên hai quả chuông hoàn toàn giống nhau.

Từ những đặc trưng như vậy, chúng tôi đi đến kết luận quả chuông này đúc năm 1796, tức là triều Tây Sơn Cảnh Thịnh năm thứ 4. Do khoảng cách số chữ bị đục là 18cm, 8 chữ còn lại là 14cm, ở 8 chữ này, chữ dài nhất là 1,5cm (chữ 穀 cốc) chữ ngắn nhất là 1cm (chữ 日 nhật). Chia khoảng cách số chữ bị đục với 8 chữ hiện còn, chúng tôi được số chữ bị đục là 11 chữ. Phỏng theo niên đại được khắc trên chuông I (do thời gian đúc 2 chuông gần nhau nên mô típ về niên đại ắt hẳn giống nhau, nhất là cùng một triều, cùng một ông vua) chúng tôi suy ra 11 chữ bị đục sẽ là "Hoàng Nguyễn triều đệ nhị đế Cảnh Thịnh vạn niên tứ...". Khôi phục cả dòng niên đại sẽ là "Hoàng Nguyễn triều đệ nhị đế Cảnh Thịnh vạn niên tứ, tuế tại Bính Thìn, mạnh hạ, cốc nhật" tức là "Triều Hoàng Nguyễn Cảnh Thịnh năm thứ 4, vào mùa hạ, ngày lành, năm Bính Thìn (1796)".

Đến đây một câu hỏi được đặt ra: Tại sao trong cùng một địa điểm mà quả chuông I không bị đục, quả chuông II lại bị đục? Theo dân địa phương cho biết là quả chuông I trước kia treo ở chùa Đỉnh Sơn, chuông II treo ở chùa Thiên Phúc. Thực ra theo văn bản thì vị trí của hai chuông từ buổi đầu đã được đặt như vậy. Có lẽ đó là sự đổi chỗ để tránh sự lùng sục của bọn phong kiến triều Nguyễn chăng? Có thể dân ở đây cho rằng chuông I quí hơn vì vừa to lại vừa do Phan Huy Ích soạn bài ký mà đổi chỗ như vậy. Song mọi điều chỉ là phỏng đoán. Theo chúng tôi sở dĩ chuông I không bị đục đó là sự giữ gìn, bảo vệ bằng mọi cách của người dân ở đây. Và cũng chính vì vậy, chuông II dù có bị đục mất niên đại, thì cả hai chuông thời Tây Sơn vẫn được tàng trữ ở vùng núi Sài Sơn gần như nguyên vẹn. Đó là điều hiếm gặp ở một nơi quanh năm có du khách vãng lai. Phải chăng đó là tấm lòng yêu mến của nhân dân Sài Sơn đối với vương triều Tây Sơn và sự trân trọng đối với di sản văn hóa của dân tộc?

Tháng 9 năm 1986

PHỤ LỤC I

Phần đầu bài ký của chuông I ở chùa Thiên Phúc

Lật Sài tổng Phật Tích Sơn Thiên Phúc tự chú hồng chung.

Phật Tích Sơn Thiên Phúc tự tân chung ký minh.

Lý thị dĩ Đức thủy phát tường, nghị thượng Thích giáo. Chân thiền tịnh thổ, điệp xuất kỳ thời Phật Tích Sơn chi Thiên Phúc tự đại thánh Từ Đạo Hạnh sở sáng thủy dã. Đại thánh hữu Lý Nhân Tông thời nhân, trác tích sơn am, pháp lực hoằng tướng, viên tức nham bạn, khai thác đạo trường. Kỷ sửu Long Phù Nguyên Hóa cửu niên xuân chú thành đông chung nhất khẩu, kỳ chung trọng nhị thiên cân, đại thập số vi. Thị niên thu Thiên Phúc tự, tứ tử Đại sa môn Thích Huệ Hưng soạn ký sổ thiên ngôn, minh tứ cú nhi vận, từ dực điển thiềm. Thư vu chung tắc thừa Trực lang bí thư sảnh trước tác lang Thượng kỵ đô úy tứ củ ngư đại Nghiêm Thường tự Thức Do mỹ thủy... Đãi vu bản triều Kỷ Dậu Quang Trung nhị niên xuân thời phủ bình định tự quán đồng khí câu chiết vi tiền, thị chung nhân dĩ cập yên.

Tạm dịch:

Đúc chuông mới chùa Thiên

Phúc, núi Phật Tích tổng Lật Sài.

Ghi bài minh cho quả chuông mới chùa Thiên Phúc núi Phật Tích.

Nhà Lý phát tích từ sông Thiên Đức, tôn trọng đạo Phật, những nhà sư chân chính và chùa chiền (lúc đó) xuất hiện nhiều. Chùa Thiên Phúc núi Phật Tích do nhà sư Từ Đạo Hạnh sáng lập ra. Đạo Hạnh sống vào thời Lý Nhân Tông, (ông) là người tu luyện trên núi, pháp lực vô biên. Ông dựng am cạnh vách đá, mở ra trường đạo (của mình). Năm Kỷ Sửu Long Phù Nguyên Hóa thứ 9 (1109) vào mùa xuân đúc một quả chuông nặng hai nghìn cân, rộng khoảng mười vòng (tay). Mùa thu năm đó chùa Thiên Phúc đón đệ tử là sư Thích Huệ Hưng về viết bài ký (dài) vài nghìn câu, một bài minh theo lối 4 câu 2 vần, từ ngữ, điển chương rất đẹp. Viết chữ vào chuông là Trực lang bí thư sảnh trước tác Thượng kỵ đô úy tên là Nghiêm Thường, tự là Thức Do được ban tước Củ ngư đại.

... Đến triều ta, năm Kỷ Dậu Quang Trung thứ hai, khi việc binh đã tạm yên, chùa quán nào có đồ đồng đều cho vào đúc tiền, quả chuông này do đó cùng chung số phận.

PHỤ LỤC II

Toàn văn bài ký của chuông ở chùa Đỉnh Sơn.

Phiên âm:

Thiên Phúc thôn Sơn Đỉnh tự bồng chung

Thiên Phúc thôn danh sơn chi thạch động, Tiên đại thánh phi tích tu luyện linh hóa vu thử dã, tiền hoàng Lê triều linh dị kỳ sự, tức kỳ động chi đông nam kiến tự. Ngũ bản thôn, hựu vu kỳ tự chú chung nhi sùng phụng chi. Tuế thời triêu mộ, bồ hát xao dữ sơn hạ tự chung chi thanh tương ứng, tòng lai cơ hĩ. Niên cửu trung (...) lãi không cốc âm hy, tích hữu nhi kim vô, diệc khí số sử chi nhiên giả. Biến hóa như chiên, kỳ tư chi vị dư. Phù Phật dĩ nhất âm thiết pháp, nhi chung chi trung không khí đại lôi. Thanh lại hưởng, nhất khẩu thôn thu hàm thiết giác mê, kỳ vi bảo dã bất tế. Giáp Dần sơ ngã đồng tông khẩu vu sơn hạ tự chú chi. Huống ư tuyệt đỉnh danh lam, khởi nhân tuyệt tịch bồ kinh chi hưởng hồ. Ư thị ngã thôn cập chư (...) tín tăng yên đẳng quyên xuất gia tài sùng tu phúc quả. Bính Thìn niên tứ nguyệt nhị thập nhất mộ công chú thành, kỳ trọng ngoại tam dư bách cân, kỳ đại nhị vị, viên kỳ thanh, thanh việt triệt hồ. Thượng hạ khấn tam huyền vu cửu hoa đài, thượng hòa vạn lại vu quần ngọc phong trung, hải hội tất văn xuất môn vĩnh trấn: ư dĩ: xiển dương huyền giáo đãng địch trần tâm, tái hữu dĩ dẫn như sơn chi thọ mạch, nhi thân kỳ thiên di phúc chỉ bất tận chi dư âm tồn hĩ. Trưng van tư dư, dư bản hương nhân dã, xuất tuy phi tri ngôn tức mặc tâm thị Phật, cầu kỳ đạo đại yếu khuyến nhân vi thiện nhi dĩ. Thả lạc dữ hương thôn nhân, thuyết giả đạo chi thứ cơ đồng thiện nhi đồng phúc, toại cố chi viết "Thiên Phúc thôn Sơn Đỉnh tự hồng chung".

Tạm dịch:

Chuông quí chùa Sơn Đỉnh thôn Thiên Phúc:

Động đá nơi núi đẹp (thuộc) thôn Thiên Phúc, bậc đại thánh đã trụ trì, tu luyện và mất tại đây. Triều Lê trước kia cho là việc linh di, bèn cho xây chùa ở phía đông nam động. Thôn ta (bấy giờ) lại đúc chuông ở chùa này để tỏ lòng tôn kính. Quanh năm sớm tối vang tiếng chày kình, hoà cùng với tiếng gõ chuông ở chùa dưới. Nay việc ấy đã là cổ lắm, tìm lại âm thanh trong hang sâu thật là hiếm hoi. Xưa có mà nay không, đó cũng là khi số của dịch lý xui nên vậy. Sự biến đổi của cuộc đời giống như sự biến hóa của loài sâu bướm. Phàm đạo Phật lấy âm thanh để thuyết pháp, mà tiếng chuông là âm thanh lớn trong không trung, hoà cùng tiếng sáo, chỉ gõ một tiếng khiến người ta tỉnh khỏi mê mộng. Điều quí của nó thực là không nhỏ. Đầu năm Giáp Dần, toàn tổng ta đã có lời xin đúc chuông ở chùa dưới, huống chi đây là nơi tuyệt đỉnh danh lam, há nỡ để bặt tiếng chuông hay sao? Thế rồi toàn thôn ta cùng với các chư vị thiện nam tín nữ quyên góp gia tài để cung kính đúc quả chuông này. Năm Bính Thìn tháng 4 năm 21 tìm thợ đúc chuông, đúc xong chuông nặng ngoài 300 cân, rộng hơn hai vòng, âm thanh trong trẻo vượt lên tất cả. Khi rung tiếng chuông chùa ở của hoa đài hòa cùng vạn tiếng sáo trên đỉnh núi ngọc thì khắp trong nước cùng nghe thấy, cả sơn môn cùng náo nức. Do đó tiếng chuông mở rộng đạo Phật, rửa sạch lòng trần, thậm chí kéo mạch thọ dài như núi, trồng phúc quả lâu dài cho nên âm thanh còn mãi. Vì những lẽ đó (trong thôn) đến xin văn ở ta. Ta là người trong làng tuy không hay chữ, nhưng ta nghĩ "tâm tức Phật". Để tìm đến với đạo Phật, điều trọng yếu nhất là khuyên người ta làm việc thiện. Bèn vui cùng với người trong làng bàn bạc về đạo, ngõ hầu vừa làm điều thiện, vừa được hưởng phúc chăng? Thế rồi [ta] viết bài: "Quả chuông quí của chùa Đỉnh Sơn thôn Thiên Phúc".

CHÚ THÍCH

(1) Nguyên văn phần đầu bài ký chúng tôi để ở phần phụ lục

(2) Chúng tôi sẽ giới thiệu toàn bộ bài ký của chuông II ở phần phụ lục./.

TB

VỀ TẤM BIA ĐỒNG TẠI ĐÌNH LÀNG QUAN NHÂN HUYỆN TỪ LIÊM HÀ NỘI

PHẠM VĂN THẮM

Khi nói về bia, chúng ta thường nghĩ tới loại bia đá, không ai nghĩ rằng cha ông ta ngày xưa làm cả bia bằng đồng nữa. Do một sự ngẫu nhiên dân làng Quan Nhân, xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội đã phát hiện trong đống gạch ngói sụt lở ở hậu cung của đình làng một tấm bia đồng - một di vật quý hiếm mà nhiều cụ già nhất trong làng chưa từng hay biết.

Tấm bia hình chữ nhật, khổ 105x63,5cm, dầy 4mm, nằm trong khung gỗ sơn son thếp vàng. Tất cả đặt trên một giá gỗ cũng sơn son, cao 33cm. Diềm bia là hoa văn hình hồi văn, trang trí đơn giản mà trang nhã. Lòng bia khắc 61 dòng, mỗi dòng trên dưới 45 chữ. Tổng cộng là 2700 chữ, được khắc theo lối chân phương. Dòng đầu tiên, có thể xem là tên bia, ghi: "Việt Thường Thị, Hùng Hiển Vương hoàng tôn, Ninh Hải quận vương thứ tử Trung Nghĩa Đại Vương ngọc phả cổ lục". Như vậy là tấm bia ghi chép về ngọc phả sự tích Trung Nghĩa Đại Vương, con trai thứ của Ninh Hải quận vương, cháu của Hùng Hiền Vương, họ Việt Thường.

Từ dòng 2 đến dòng thứ 58 là nội dung bản thần tích, ghi chép về Hùng Lang Công(1).

Dòng thứ 59 ghi "Hồng Phúc nhị niên tam nguyệt sơ thập nhật" (ngày 10 tháng 3 niên hiệu Hồng Phúc 2 (1573). Sau dòng chữ này là 3 dòng chữ bị đục, vết đục được bôi son đỏ. Vết đục thứ 1 dài 17 cm, số chữ bị đục chừng 13 chữ. Vết đục thứ 2 dài 40cm ở giữa dòng chữ thứ 59 và 60, số chữ bị đục chừng 29 chữ. Vết đục thứ 3 dài 21cm ở bên trái dòng thứ 61, số chữ bị đục chừng 15 chữ. Giữa 2 dòng bị đục thứ 2 và 3 còn lại các chữ "Bản thôn tòng tiền phụng sự linh thần nhị vị tịnh bất tường sự tích. Tự Đức tứ niên, Tân Hợi tứ nguyệt nhật phỏng đắc sự tích tại Bạch Hạc huyện, Bình Đẳng xã đệ hồi. Lục niên Quý Sửu thập nguyệt nhật y dạng thuyên khắc dĩ thuỳ vĩnh cửu". Nghĩa là: "Thôn nhà từ trước thờ cúng hai vị linh thần nhưng đều không rõ sự tích. Ngày tháng 4 năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851) tìm được sự tích của thần tại xã Bình Đẳng, huyện Bạch Hạc rước về. Ngày tháng 10 năm Quý Sửu niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853) đem khắc y nguyên để lưu truyền cho muôn đời".

Như vậy, năm tạo dựng tấm bia đồng trên là 1853, niên hiệu Tự Đức thứ 6. Dòng niên đại trên có đặc điểm: nét chữ to hơn, khắc đậm hơn so với chữ ở dòng thứ 59 trở lên. Nhưng vì sao có 3 hàng chữ bị đục và đó là những chữ gì? Đây là một vấn đề cần tìm hiểu, có ý nghĩa về văn bản học. Chúng tôi đã tìm hiểu thêm những tư liệu có liên quan tới tấm bia đồng này tại địa phương, được biết như sau:

1, Ngôi đình thờ Thành hoàng của làng, nơi để tấm bia bằng đồng được xây dựng từ rất lâu. Theo tấm bia "Quan Nhân thôn tri bảo hậu thần" có niên hiệu Chính Hòa 22 (1701) đặt ở bên trái nhà bia thì ngôi đình của làng đã có từ đầu thế kỷ XVIII và việc thờ Trung Nghĩa Đại Vương cũng đã có từ khi xây dựng ngôi đình của làng.

2, Các tấm sắc phong còn lưu giữ được ở đình làng cho biết Thành hoàng của làng được phong là Trung Nghĩa Đại Vương, Mỹ tự "Trung Nghĩa" được ghi trong tấm sắc phong có niên hiệu Cảnh Hưng 28 (1767). Đây là tấm sắc phong có niên đại sớm nhất trong số sắc phong còn lưu giữ được ở đình làng này.

3, Về sự tích thần Trung Nghĩa Đại Vương hiện còn một bản thần tích chép tay. Nội dung của bản thần tích này về đại thể không khác mấy với nội dung văn bản thần tích khắc trên tấm bia đồng. Chỗ khác nhau là:

a, Sau hàng chữ ghi niên hiệu "Hồng Phúc nhị niên tam nguyệt sơ thập nhật", văn bản chép tay ghi họ tên chức vụ người soạn là "Hàn lâm viện Đông các đại học sỹ thần Nguyễn Bính phụng soạn" gồm 13 chữ. Tiếp đó là dòng: "Hoàng triều Vĩnh Hựu nguyên niên quản giám bách thần tri điện thiếu khanh, bát phẩm thư lại thần Nguyễn Hiền tuân y tiền triều cựu bản phụng tả" gồm 29 chữ.

b, Văn bản chép tay không có dòng chữ "bản thôn tòng tiền phụng sự nhị vị linh thần tịnh bất tường sự tích (...) dĩ thùy vĩnh cửu" gồm tất cả 52 chữ. Như vậy vị thần Trung Nghĩa Đại Vương đã được thờ tế từ lâu, sự tích đã được ghi lại, văn bản thần tích đã được khắc lên tấm bia bằng đồng. Căn cứ vào chỗ khác nhau và vị trí vết đục, thì vết đục thứ nhất có khả năng là họ tên, chức vụ người soạn, vết đục thứ hai có khả năng là họ tên, chức vụ người sao chép. Còn vết đục thứ ba, dựa vào hình thức nói chung của thể loại bi ký mà đoán định, thì vị trí của vết đục này tương ứng với dòng họ tên, chức vụ người viết hay người khắc chữ.

Từ những vết đục đã gợi lên cho chúng ta biết rằng tấm bia đồng vốn là một văn bản nguyên vẹn, có thể nó không phải được dựng vào năm thắng văn bản được khắc lên bia vào năm Tự Đức 6 (1853). Ở đây có hai khả năng xảy ra:

1. Đây là biểu hiện của việc thi hành chính sách đục xóa di sản văn hiến của một thời đại không được coi là chính thống.

2. Do ý muốn chủ quan muốn đề cao sự linh thiêng của vị Thành hoàng mà dân làng thờ cúng.

Qua khảo cứu văn bản khắc trên tấm bia đồng chúng tôi thấy:

a, Những họa tiết trang trí ở diềm bia là những họa tiết hình hồi văn, họa tiết rất phổ biến thời Tây Sơn và thời Nguyễn(2).

b, Các chữ khắc trên bia có những chữ sau đây được khắc theo lối kiêng húy:

- Chữ Tông (宗) xuất hiện 2 lần ở dòng chữ thứ 5 và thứ 16 đều được khắc bớt nét ( ).

- Chữ Chủng (種) xuất hiện 2 lần đều ở dòng thứ 10 được khắc bớt nét (重).

- Chữ Nhậm (任) xuất hiện 2 lần ở dòng 19 và dòng 41 đều được khắc bớt nét (壬 ).

Chúng ta biết rằng những chữ húy trên đây là những chữ húy quan trọng của các triều từ đầu nhà Nguyễn đến Tự Đức. Từ những cứ liệu này bước đầu chúng tôi đoán định rằng văn bản thần tích được khắc lên trên tấm bia đồng được thực hiện vào thời gian những năm đầu niên hiệu Tự Đức. Do vậy khả năng thứ nhất không thể xảy ra.

Căn cứ vào dòng chữ "bản thôn tòng tiền phụng sự nhị vị linh thần tịnh bất tường sự tích" (thôn nhà từ trước thờ cúng hai vị linh thần nhưng đều không rõ sự tích) có mâu thuẫn với những tư liệu còn lưu giữ tại đình như văn bia, sắc phong có niên hiệu đời Lê, nội dung có liên quan tới vị thần "Trung Nghĩa Đại Vương". Cho nên ghi "bất tường sự tích" là có sự khiên cưỡng. Điều đó chứng tỏ ý muốn đề cao sự linh thiêng của vị Thành hoàng mà dân làng đang thờ cúng. Từ đó chúng tôi suy ra hai dòng chữ ở giữa khoảng cách vết đục thứ hai và thứ ba là dòng chữ khắc thêm. Vết đục và dòng chữ khắc thêm có thể được thực hiện vào giai đoạn dân làng sau khi sưu tầm ra bản thần tích chép tay tại xã Bình Đẳng, do vậy niên đại ghi lên tấm bia đồng vào năm Tự Đức 6 (1853) là niên đại của dòng chữ khắc thêm.

Tuy vậy chúng tôi cũng thấy có điểm nghi vấn cần nêu lên:

- Chữ Thời (時) là chữ húy rất quan trọng thời Tự Đức. Ở văn bản này chữ Thời xuất hiện 4 lần ở các dòng chữ thứ 7, dòng 19, dòng 21, dòng 59 nhưng đều không được khắc theo lối kiêng húy như những văn bản chúng ta thường gặp từ thời Tự Đức trở về sau.

- Chúng tôi cũng chưa lý giải được tại sao họ tên chức vụ của người soạn là Nguyễn Bính và họ tên chức vụ người sao chép là Nguyễn Hiền bị đục bỏ. Hai ông này đều là người đời Lê.

Xin nêu lên để các nhà nghiên cứu bổ cứu cho.

NỘI DUNG BẢN THẦN TÍCH KHẮC TRÊN TẤM BIA ĐỒNG

Bản thần tích ghi chép (sự tích) Trung Nghĩa Đại Vương, vị Thành hoàng của làng Quan Nhân. Bản này được chia làm bốn phần.

1. Phần mở đầu, bản thần tích khẳng định công lao gây dựng đất Việt của các vua Hùng và con cháu nối dõi là các vị thần nổi tiếng trấn trị các miền rừng núi và đồng bằng.

2. Phần thứ hai, ghi sự ra đời của Hùng Lãng Công. Ông là dòng dõi vua Hùng, được làm Huyện trưởng tại huyện Vũ Tiên, sau lấy bà Trương Mỵ Nương người làng Quan Nhân. Lúc đó dân làng Quan Nhân đang bị dịch bệnh hoành hành, nhờ uy linh của ông mà dân làng khỏi bệnh, dịch bệnh được diệt trừ. Mọi người tôn ông làm thần sống, và dân làng được nhận chức "hộ nhi", lại được miễn trừ sưu sai thuế dịch.

3. Phần thứ 3, ghi sự tích đánh dẹp giặc Nam Chiếu của Hùng Lãng Công. Khi ấy giặc nổi loạn động tới hàng chục vạn, kéo đi cướp bóc tài sản của nhân dân, triều đình sai ông đi chống trả. Do có tài dụng binh mưu lược, lại có nhiều tài lạ phép hay cho nên Hùng Lãng Công đã chiến thắng. Nhưng do sau này không phòng bị, bị giặc quay lại bao vây, ông phải phá vây và tự "hóa".

Phần kết luận: Khi nghe tin Hùng Lãng Công hy sinh, bà Trương Mỵ Nương cũng "hóa" theo, dân làng lập đền thờ. Từ đó về sau vùng này có tục lệ kiêng ba chữ "Lãng" "Mỵ" "Nương" và cấm dùng quần áo màu vàng, màu trắng.

Khảo sát về mặt nội dung, văn bản khắc lên tấm bia đồng đã ghi lại sự tích Hùng Lãng Công dánh dẹp Nam Chiếu. Sự kiện đánh dẹp Nam Chiếu cũng được các sử sách cổ của ta ghi chép lại ít nhiều. Trong năm 858 "đất Giao Châu có mối lo về người Man (Nam Chiếu)(3) và từ đó cuộc đánh chiếm lấn đất của người Nam Chiếu có lần đã tới tận phủ Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay). Không rõ "Nam Chiếu" mà Hùng Lãng Công đánh dẹp có liên quan gì với nước Nam Chiếu ở thế kỷ thứ 9 hay không. Dẫu sao thì bản thần tích này do Nguyễn Bính soạn đã dựa trên những sự kiện lịch sử và truyền thuyết của nhân dân, văn bản lại được khắc lên tấm bia bằng đồng, chắc chắn nó có một giá trị nhất định, góp phần vào công việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam thời cổ đại. Đây cũng là lần đầu tiên chúng ta phát hiện ra tấm bia được dựng lên bằng chất liệu đồng, đó là một tư liệu quí góp phần làm phong phú mảng tài liệu nghiên cứu về bia ký học của Việt Nam.

CHÚ THÍCH

(1) Xem phần lược thuật nội dung bản thần tích ở phần cuối bài.

(2) Xem Nguyễn Bích: Tư liệu đình làng Quan Nhân.

(3) Xem Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. KHXH, H. 1983, tr.185-187./.

TB

18 TẤM BIA NÔM Ở CHÙA PHẬT GIÁO

NGUYỄN THỊ TRANG

Ở giữa làng Vĩnh Linh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội có một ngôi chùa mà trên cổng tam quan đề ba chữ Hán bằng vữa: Phật giáo tự (chùa Phật giáo). Chùa này do hội Phật giáo của thôn xây dựng vào năm Quý Mùi 1943, theo lối kiến trúc hiện đại. Về hình thức thì chùa không phải là một cảnh quan nổi tiếng, nhưng đáng chú ý là chùa còn nhà bia giữ nguyên vẹn được 18 tấm bia Nôm.

Tấm bia tiêu biểu được dựng ở nhà bia trước cửa nhà Tam bảo có đầu đề là Vĩnh Linh xã(1) Phật giáo hội kỷ niệm công đức bi ký (bia ghi kỷ niệm công đức hội Phật giáo xã Vĩnh Linh) khổ 12dm x 7,5 dm. Bia hai mặt, dựng năm 1945, chữ khắc sâu, nét to, không ghi tên tác giả, tấm bia trình bày đơn giản, nhưng về nội dung gồm những câu biền ngẫu Nôm có vần, diễn tả khá tỉ mỉ việc xây dựng chùa và tên tuổi, chức vụ từng người trong hội Phật giáo xã Vĩnh Linh.

17 tấm bia còn lại có 6 bia dựng năm 1943, 4 bia dựng năm 1945 và 7 bia không ghi năm dựng. Bia có cỡ lớn nhất là 75cm x 49cm, nhỏ nhất là 43cm x 31cm. Các bia này tuy có đầu đề khác nhau như Hậu kỵ bi ký; Kỷ niệm kỵ nhật bi ký; Kỷ niệm bi ký; nhưng nội dung đều ghi lại việc gửi giỗ của thiện tín thập phương. Ở mỗi bia đều mở đầu bằng 6 chữ: Nam mô a di đà phật và có một đoạn văn diễn Nôm khá uyển chuyển chẳng hạn như đoạn văn ở bia có đầu đề là Lập bi hậu kỵ (dựng bia gửi giỗ) dựng ngày 1-5-1954 có những câu:

"Tưởng rằng ngày tháng lâu dài,
Để lan quế xum vầy chăn gối;
Nào ngờ xe tiên bước vội,
Áng mây vàng che tối kẻ đầu xanh...
... Minh dương đôi ngả nỗi tình,
Lập bia ký kỵ để giành về sau".

Tất cả 18 tấm bia Nôm trên đây có văn phong khá nhất quán và lối viết chữ Nôm rất thông nhất, tuy không ghi tên tác giả, nhưng hầu như cả thôn ai cũng biết người soạn những bài văn bia này là cụ Lê Văn Khóm(2). Điều rất thú vị là tác giả hiện vẫn còn sống tại thôn Vĩnh Linh. Chính tác giả đã phiên đọc và giải thích những chữ Nôm trên văn bia cho chúng tôi. Theo cụ giải thích thì chữ Nôm được tạo nên chủ yếu dựa trên cơ sở những chữ Hán đồng âm. Tuy vậy khi viết chữ Nôm, cũng phải linh hoạt, bởi vì ngoài những chữ phổ thông, còn có những tiếng nói riêng biệt của địa phương. Đối với những chữ này người viết thường dựa vào những chữ Hán gần âm và có một số yếu tố biểu hiện ý nghĩa của chữ Nôm đó. Chẳng hặn chữ "tẻo" trong "tẻo tèo teo" thì chọn chữ Hán là "tiểu" (小) bởi vì giữa chữ "tẻo" và "tiểu" có phần căn bản giống nhau như cùng vần "t" và thanh điệu "?" (hỏi). Mặt khác, về nghĩa thì chữ Nôm "tẻo" trong "bé tẻo teo" có nghĩa là bé nhỏ, mà chữ Hán "tiểu" (小) cũng có nghĩa là nhỏ, nên "tẻo" và "tiểu" không chỉ gần nhau về âm mà còn gần nhau về nghĩa. Ba chữ "tẻo tèo teo" là một tập hợp từ để chỉ một nghĩa là nhỏ hoặc bé nên trong văn cảnh nhất định người ta có thể viết ba chữ "tiểu" vẫn đọc thành "tẻo tèo teo". Nếu trong trường hợp một chữ Nôm gần âm với nhiều chữ Hán thì phải căn cứ vào nghĩa của chữ Nôm mà chọn chữ Hán. Chẳng hạn nếu "lầm" trong "lầm đục" thì có thể chọn chữ "lâm" và thêm bộ chấm thủy cho dễ đọc là "lầm", nhưng nếu "lầm" có nghĩa là như "nhầm" trong "nghe nhầm", "tính nhầm" thì có thể chọn chữ "nhâm" và thêm chữ nhỉ, hoặc chữ khẩu. Chữ "chòm" trong "chòm xóm" phải viết trúc + chiêm, nhưng chữ "chùm" trong "chùm trưởng" mà thường đọc là "trùm trưởng" mang nghĩa chỉ người đứng đầu thì phải viết nhân + thượng.

Chữ Nôm trên những tấm bia này có một số mã chữ khá đặc biệt, dùng khác hẳn với những mã chữ được sưu tầm trong các bộ Từ điển An Nam – Pháp của J.F.M Génibrel. Nhà in Tòa thánh Tân Định, Sài Gòn, năm 1983; Tự vị Nôm của Vũ Văn Kính và Nguyễn Văn Khánh, Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, năm 1970; và Bảng tra chữ Nôm của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1976.

Dưới đây, chúng tôi xin trích nêu 14 chữ Nôm trong số 18 tấm bia Nôm nói trên, nhằm bổ sung một số dị thể chữ Nôm để bạn đọc có thể thấy được đôi nét về tính đa dạng của loại chữ này.

Số TT ÂM ĐỌC Văn Bia Từ điển Annam-Pháp TỰ VỊ NÔM Bảng tra chữ Nôm
1 Bẽo (Nguyễn Thị Bẽo) 殍 莩
2 Vóc (Nguyễn Thị Vóc)
3 Xoen (Nguyễn Thị Xoen) 穿 . 穿
4 Kẹp (Nguyễn Thị Kẹp) .
5 Kép (Nguyễn Thị Kép) 报 夹
6 Tẻo (Tẻo tèo teo)
7 Doành (Nguyễn Thị Doành)
8 Ếnh (Nguyễn Thị Ếnh)
9 Góp (Nguyễn Thị Góp)
10 Chòm (Chòm xóm)
11 Nhầm (Lỗi nhầm) 孾 林 孾 林 淋 琳 駊 霖
12 Chếch (Chênh chếch) 折 隻
13 Chiu (Chắt chiu)
14 Ngơi (Nguyễn Thị Ngơi)

CHÚ THÍCH

(1) Vĩnh Linh: trước kia là đơn vị xã, nay nhập vào xã Vĩnh Quỳnh, trở thành đơn vị thôn, thuộc xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

(2) Cụ Lê Văn Khóm năm nay 83 tuổi, nhà ở gần chùa, cụ là Thư ký của hội Phật giáo xã Vĩnh Linh từ ngày hội được thành lập. Trong văn bia cụ có ghi rõ: Thư ký Lê Văn Khóm, tự Gia Khánh, hiệu Minh Đức. Cụ là người trong làng nho học cũ, có vốn hiểu biết nhất định về chữ Hán và chữ Nôm. Hội Phật giáo của xã yêu cầu cụ viết văn bia bằng chữ Nôm cho dễ đọc, dễ nhớ và truyền được lâu dài.

TB

SƯU TẦM TÀI LIỆU HÁN NÔM Ở CÁC
DI TÍCH HUYỆN THANH TRÌ HÀ NỘI

NGUYỄN ĐỨC BẠCH
NGUYỄN DOÃN TUÂN

Quý 4 năm 1986 vừa qua, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã hợp tác với Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội tiến hành việc kiểm kê sưu tầm tài liệu Hán Nôm ở các di tích huyện Thanh Trì, Hà Nội. Trên địa bàn 26 xã và 1 thị trấn, còn 186 di tích đình, đền, chùa, miếu. Số lượng tài liệu thu thập được là 790 mặt bia, 460 mặt chuông, 30 mặt khánh, 1210 câu đối, 823 bức hoành phi, 544 sắc phong, 76 bài thơ, 66 cuốn thần phả ngọc phả. Toàn bộ các tài liệu này đều được phiên âm, dịch nghĩa, chú thích. Riêng các cuốn thần phả, hoành phi, câu đối, sắc phong còn được viết lại bằng mực tàu trên giấy dó và đóng thành từng quyển theo lối đóng sách Hán Nôm truyền thống.

Qua đợt kiểm kê, sưu tầm, có thể thấy tài liệu Hán Nôm được phân bố một cách tự nhiên và thường tập trung nhiều ở những di tích thờ các bậc danh nhân hay các di tích là danh thắng. Nếu lấy quốc lộ I làm đường trục thì các xã về phía tây có nhiều di tích và tài liệu hơn các xã phía đông. Điều đáng chú ý là hầu hết các xã ở phía tây là quê hương của những danh nhân, như xã Tả Thanh Oai có Ngô Thì Nhậm, xã Đại Kim có Nguyễn Siêu, Nguyễn Huyên; xã Thanh Liệt có Chu Văn An, xã Thịnh Liệt có Bùi Phổ, Bùi Trực, Bùi Diên, Bùi Như Tích, xã Định Công có Bùi Xương Tụ, Bùi Huy Bích v.v. Việc bảo vệ di tích, bảo vệ tư liệu lịch sử ở những xã này đã được coi trọng. Chính quyền địa phương thường giao cho các cụ trong Ban mặt trận và Ban khánh tiết ở địa phương coi giữ di tích và tư liệu. Các bức hoành phi, câu đối, cuốn thư vẫn được treo giữ trang nghiêm; các cuốn thần phả ngọc phả, sắc phong vẫn được giữ gìn bảo quản trong hộp gỗ. Tuy nhiên ở đó đây trong huyện việc bảo vệ giữ gìn tài liệu chưa trở thành một qui chế thống nhất. Một đôi nơi vẫn có những cá nhân mượn tài liệu đem đi làm tài sản riêng hay để mất mát lộn xộn khiến cho những tài liệu có giá trị bị hư hỏng mục nát. Bởi vậy đợt sưu tầm thu thập tài liệu này là một dịp tốt để phát hiện, lưu trữ, bảo quản di sản của các bậc tiền nhân.

Trong số tài liệu thu thập được, đáng chú ý là văn bia và thần phả. Bia có niên đại sớm nhất là năm Vĩnh Tộ 7 (1625)(1), bia có niên đại muộn nhất là năm 1945(2). Ở một số bia không chỉ có cách trình bày đẹp mà nội dung cũng khá giá trị như bia ơr từ đường họ Đoàn do Đoàn Triển viết, ghi tương đối chi tiết lai lịch của Đoàn Huyên. Bia ở đền thờ Nguyễn Siêu do Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp viết, cung cấp những tư liệu đáng tin cậy về dòng họ này. Bia chùa Quỳnh Đô xã Vĩnh Quỳnh ghi lại những quy ước về việc dạy và học của bản thôn từ năm đầu Thiệu Trị (1841)(3). Các cuốn thần phả ngọc phả tuy đều là sách chép tay nhưng việc ghi chép cũng khá chi tiết và có hệ thống. Điều đáng quan tâm là trong số thần phả ngọc phả thu thập được, có khá nhiều cuốn ghi ở trang cuối là: "Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ thần Nguyễn Bính phụng sao bản chính". Nếu được giám định văn bản thì có thể từ các tài liệu này sẽ rút ra được những tư liệu tham khảo trong việc nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu danh nhân mà trong chính sử không nói tới. Chẳng hạn Đại Việt sử ký toàn thư không ghi lai lịch quê quán của Nguyễn Phục, nhưng thần phả ở đền thờ ông cho biết: họ Nguyễn quê ở Làng Ma Kha, huyện Cẩm Giàng (nay là huyện Tứ Lộc), tỉnh Hải Dương (nay thuộc Hải Hưng), sau di cư sang làng Duyên Trường, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Theo gia phả thì Nguyễn Phục giữ nhiều chức vụ, thời Lê Thánh Tông làm Tham nghị chính sự, Tham chính xứ Thanh Hóa, Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ và có nhiều năm làm quan ở vùng Quảng Trị Thừa Thiên. Nếu như những chi tiết trong gia phả là đáng tin cậy, thì có thể lý giải được tại sao nơi quê hương họ Nguyễn ở huyện Tứ Lộc không có đền thờ mà thôn Nội Am xã Liên Ninh huyện Thanh Trì lại có đền thờ ông.

Ngoài nguồn tư liệu nói trên, xuống các xã còn thấy một nguồn tư liệu sống là một số ít cụ trong làng nho học cũ biết khá nhiều chi tiết lịch sử và am hiểu có hệ thống về phong tục và tín ngưỡng địa phương. Qua các tư liệu sống, có thể phần nào hiểu thêm di sản văn hóa địa phương.

Tóm lại, đến với Thanh Trì, không chỉ là đến với những võ công tiêu biểu như chiến thắng oanh liệt Ngọc Hồi lịch sử năm 1789, mà còn là đến với quê hương của những danh nhân văn hóa và lịch sử nước ta. Văn hiến làm nền tảng cho những võ công, võ công cũng chắp cánh cho văn hiến. Qua văn hiến ta hiểu hơn về võ công và từ trong di sản văn hóa đó ta sẽ hiểu hơn về một danh nhân, về một địa phương, về đất nước và truyền thống dân tộc Việt Nam trong lịch sử.

CHÚ THÍCH

(1) Bia chùa Nghiêm Thắng, xã Thanh Trì, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

(2) Bia chùa Phật giáo, thôn Vĩnh Linh, xã Vĩnh Quỳnh.

(3) Bia có đầu đề là: Lập hương học điều ước sự lệ.

TB

HAI MƯƠI BÀI THƠ NÔM LÚC ĐI SỨ TRUNG QUỐC CỦA TRỊNH HOÀI ĐỨC

CAO TỰ THANH

Trong nhóm Gia Định tam gia, Trịnh Hoài Đức là người mà thơ văn hiện còn lại tương đối đầy đủ nhất. Ngoài Cấn Trai thi tập(1) và một số thơ văn chữ Hán khác(2), ông còn có một số thơ chữ Nôm, mà theo các tài liệu đã công bố, có thể kể ra các bài Từ mẹ đi sứ Tàu - Biệt mẫu như Thanh sứ(3), Qua đèo Hải Vân(4 ) và quan trọng nhất là cụm thơ liên hoàn làm lúc đi sứ Trung Quốc (1802-1804). Tuy nhiên, vì trước nay không được nhiều người quan tâm, nên từ ý nghĩa - nội dung đến thể loại - hình thức, từ văn bản đến hoàn cảnh ra đời..., tác phẩm này của Trịnh Hoài Đức hiện còn một số điểm cần được đi sâu tìm hiểu.

Về tác phẩm này, Lê Quang Chiểu - người có thể coi là đầu tiên công bố nó trên sách báo bằng chữ Quốc ngữ la tinh đã giới thiệu như sau: "Mười tám bài thơ sau này là của ông Trịnh Hoài Đức, lúc vua Cao hoàng sai đi sứ (...) ông ấy thấy triều Thanh soán triều Minh, có ý buồn, mà làm ra..."(5). Cũng với một văn bản gồm 18 bài tương tự có nhan đề Đi sứ cảm tác, Nam Xuân Thọ còn đi xa hơn trên lối giải thích ấy, cho rằng Trịnh Hoài Đức lúc nào cũng nhớ về nhà Minh(6). Nhưng cái "tâm sự di thần" nơi những người Trung Hoa yêu nước thất bại đào vong thế kỷ XVII đến thời Trịnh Hoài Đức thật ra cũng chẳng còn đậm nét tới mức như vậy, và riêng nhà Nho gốc Minh hương họ Trịnh thì đã Việt hóa gần như hoàn toàn. Trong những chuyến đi buôn lên Cam-pu-chia trước khi tham gia chính quyền Nguyễn Ánh ở Gia Định (1788), ông đã có một số bài thơ như Cửu khách Chân Lạp (1784), Hoài nội (1785) với lời lẽ và tâm tình hoàn toàn giống như của một người Việt sống xa nhà: "Man yên địa giác thiên trùng lộ. Việt khách thiên nhai nhất đoản bồng" (Một lá chân trời thuyền khách Việt. Muôn trùng góc đất nẻo sương Man), "Chế Lăng sơn thủy nhiêu yên chướng, Gia Định hương quan nhập mộng hồn" (Chế Lăng khói tỏa mờ sông núi, Gia Định hồn mơ lại xóm làng) v.v.. Sau này, ông cũng sẽ viết trong Gia Định thành thông chí những câu như "Vậy thì Gia Định của nước Việt ta không thấy nhắc tới trong thư tịch Trung Hoa có lẽ là vì như thế (vì người Trung Hoa chưa biết - CTT) chăng?" (Cương vực chí) hay "... Duy có người Việt ta noi theo tục cũ Giao Chỉ" (Phong tục chí) đầy lòng tự hào về đất nước và con người Việt Nam ở Gia Định thành (Nam Bộ), còn ngay trong bài thơ Việt Tây sứ quán nhuận nhị nguyệt khẩu chiếm (1803), ông đã coi mình là một người Việt khi so sánh khí hậu Gia Định và Quảng Đông "Âu nhân sạ báo canh xuân phục, Hàn thắng ngô hương Đông chí thiên" (Nghe báo tiết xuân rày đã tới, Lạnh hơn Đông chí ở quê mình). Rõ ràng, không thể nhận định ý nghĩa cụm thơ Nôm liên hoàn lúc đi sứ Trung Quốc của Trịnh Hoài Đức như Lê Quang Chiểu, Nam Xuân Thọ...

Mặt khác, Lê Quang Chiểu và Nam Xuân Thọ đã sử dụng những văn bản không hoàn chỉnh, khiến cho việc nhận định tác phẩm thiếu một cơ sở tài liệu chính xác khách quan. Một văn bản hoàn chỉnh của tác phẩm này, gồm 20 bài thơ liên hoàn, chép trong Tân tuyển Quốc ngũ tập thi, một hợp tập thơ văn Hán Nôm chép tay do Phòng Bảo tồn Bảo tàng Sở Văn hóa Thông tin Long An sưu tầm được năm 1982 cho phép tìm hiểu nó đầy đủ và chính xác hơn. Hợp tập này chép trên giấy bản thường, khổ 14 x 25cm, có một đôi chỗ sờn rách hay bị mối mọt đục làm mất chữ nhưng nhìn chung vẫn còn nguyên vẹn. Tất cả gồm 33 tờ không kể bìa, được đánh số thứ tự bằng mực son ở mép sách, nhưng chỉ mới chép tới tờ 29 a, chữ viết rõ ràng cẩn thận dễ đọc. Ngoài bìa có hàng chữ "Tân tuyển Quốc ngữ tập thi" (新 選 國 語 詩 集), không thấy đề tên người chép và niên đại sao chép, nhưng căn cứ vào một số thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Hồ Huấn Nghiệp... và nhất là bài Đồng hồ thơ bằng chữ Hán tả cái đồng hồ theo kiểu Tây phương được chép trong đó, thì áng chừng nó đã được sao chép vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hai mươi bài thơ Nôm liên hoàn của Trịnh Hoài Đức được chép từ tờ 14b đến tờ 16b không thấy đề tên tác giả và nhan đề tác phẩm. Sau đây là phần phiên âm và chú thích văn bản nói trên, có bước đầu đối chiếu và hiệu đính trên cơ sở văn bản của Lê Quang Chiểu trong Quốc âm thi hiệp tuyển (viết tắt là bản TTQ-NTT và bản QÂTHT. Chữ số Ả Rập trong phần khảo đính chỉ số thứ tự của các câu trong mỗi bài).

I
Vuông tròn trời đất nói sao cùng
Tháng bảy ngày rằm tới Quảng Đông(7)
Kẹo kéo lằng nhằng nhai đã đứt
Tơ vò rối rắm gỡ hầu xong
Nửa năm cơm nước đôi tên khách
Ngàn dặm sông non bốn cái tròng(8).
Giờ gặp cố nhân bày khoản khúc(9)
Kẻo dây thương nhớ, đó ngùi trông.

1. QÂTHT: Vuông tròn trời đất nói không cùng.

2. QÂTHT: Tháng bảy ngày rằm đến Quảng Đông

3. QÂTHT: Kẹo kéo lăng nhăng nhai chẳng đứt

5. QÂTHT: Nửa năm cơm thịt đôi tên khách

6. QÂTHT: Ngàn dặm sông non một cái tròng.

7. QÂTHT: Chừ gặp cố nhân bày khoản khúc

8. QÂTHT: Kẻo đây thương đó, đó ngùi trông.

II.
Ngùi trông nên phải ráng chiều lòn
Tháng Tý ngày Dần tới Áo Môn(10)
Ngàn trượng ơn sâu lai láng bể
Muôn trùng nghĩa nặng chập chồng non
Dưới trời ai dễ không tôi chúa
Trên đất người đều có vợ con
Đồ sộ vật chi xem hãy đó
Chẳng sau chẳng trước chẳng đen mòn(11)

1. QÂTHT: Ngùi trông nên phải gắng chịu lòn

2. QÂTHT: Tháng Tý ngày Dần tới Ú c Môn

3. QÂTHT: Dưới đời ai dễ không tôi chúa

7. QÂTHT: Sồ sộ vật chi xem hỡi đây.

III
Đen mòn sao đặng nghĩ cùng ta
Năn nỉ(12) cùng nhau việc cửa nhà
Ít sống xưa nay người bảy chục(13)
Nhiều lo lui tới đạo năm ba(14)
Trăng tròn mặt ủ mây chưa vén
Biển mặn lòng thương nước khó pha
Cậy có dầm vàng(15) soi tỏ dạ
Dễ đâu chẳng thấy sự nhưng là

1. QÂTHT: Đen mòn sao đặng hỡi cùng ta

6. TTQNTT: Bề mặn lòng thương cỏ mượn pha. Đây theo QÂTHT.

7. QÂTHT: Cậy có dằm vàng soi tỏ dạ

8. QÂTHT: Dễ đâu chẳng biết sự nhưng là.

IV
Những là muốn tỏ nẻo chông gai
Chi quản đường xuân mấy dặm dài
Dưới nguyệt tham say nên rót rượu
Trong sương chịu lạnh bởi tìm mai
Đã cam mình chịu cây vô dụng
Khá nệ người chê đứa bất tài(16)
Nghĩa kể hai trăm năm có lẻ(17).
Xin đừng năn nỉ sự nay mai

1. QÂTHT: Nhưng là muốn mở nẻo chông gai

2. QÂTHT: Bao quản đường xa mấy dặm dài

3. QÂTHT: Dưới cuộc ham say nên trót chén

4. QÂTHT: Trong sương chịu lạnh phải tầm mai

6. QÂTHT: Chớ nệ ai chê đứa bất tài

7. QÂTHT: Nghĩ kẻ hai trăm năm có lẻ.

V
Nay mai còn có sự chưa tường.
Huống nữa xa xôi mấy tháng trường
Đường nọ phải chăng(18) còn nhộn nhộn
Sự này khôn dại hãy ương ương(19)
Linh chinh bởi đó gây lăng líu(20)
Mắc mỏ(21) vì dây phải vấn vương
Trình với bao nhiêu người thức kiến(22)
Rẽ ròi quân tử mặc đo lường.

2. QÂTHT: Huống nữa xa xôi mấy dặm trường

QÂTHT: Huống bạn xa xuôi mấy tháng trường. Đây tạm hiệu đính như trên.

3. QÂTHT: Đường nọ phải chăng còn lộn xộn.

5. QÂTHT: Linh chinh bởi đấy sao lăng líu

6. QÂTHT: Mắc mở vì ai khéo vấn vương

7. QÂTHT: Chường với bao nhiêu người quyến thức

8. QÂTHT: Đem lòng quân tử mặc đo lường.

VI
Đo lường lại giận sự con cua(23)
Tưởng đến càng thêm nỗi đắng chua
Mây mịt mù bay trời nhớ bạn
Nước minh mang chảy bể trông vua
Đi cờ thấy đó tay không thấp
Đếm đất lo đây cuộc chẳng thu(24)
Cho biết làm người thời phải vậy
Dễ đâu chẳng đáp một bàn ru(25)

1. TTQNTT: Đo lường những sự hận con cua. Đây theo QÂTHT.

2. QÂTHT: Tưởng lên càng thêm nỗi đắn đua

4. QÂTHT: Nước minh mông chảy biển trông vua

6. QÂTHT: Đếm đất lo ai cuộc chẳng thua

8. QÂTHT: Dễ đâu chẳng biết một bàn dùa

VII
Một bàn rũ sạch đám ngoan hung(26)
Phong cảnh như vầy phỉ ngóng trông
Lối vịnh năm ba thuyền đỗ liễu
Bên non bảy tám hạc về tùng
Vật còn chút biết trời khuya sớm
Người dễ không hay đất lạnh lùng
Lố thấy chín trùng chưa khỏe gối(27)
Dám âu mình chịu phận thung dung

1. QÂTHT: Một bàn rũ chảy đám ngoan hung

QÂTHT: Một bàn dùa sạch đám hoan hung. Đây tạm hiệu đính lại.

2. QÂTHT: Phong cảnh như vầy phỉ luống trông.

3. QÂTHT: Song vịnh năm ba thi Đỗ Phủ. Đây theo QÂTHT.

4. QÂTHT: Bên non bảy tám hạc trong tùng. Đây theo QÂTHT.

6. TTQNTT: Người dễ không năng đất lạnh lùng. Đây theo QÂTHT.

VIII
Thung dung như vậy dám phân bì(28)
Miệng mỏ(29) làm vui dễ có gì
Thu hứng tám bài thơ Đỗ Phủ(30)
Đông xem một bức họa Vương Duy(31)
Cầm xoang gióng phím thương tri kỷ
Cờ bố thưa con học chính sư(32)
Rồi đó thì thôi nguôi dễ đặng
Nguôi thì dễ đặng khó chi chi.

1. QÂTHT: Thong dong như vậy ít ai bì.

2. QÂTHT: Mượn mỏ làm vui dễ khó gì.

4. QÂTHT: Đêm ngâm một bức họa Vương Duy

5. QÂTHT: Cầm xang chống phím thương tri kỷ

6. QÂTHT: Cờ sắp thưa con học chánh sư

7. QÂTHT: Nguôi thế thì thôi nguôi dễ đặng.

IX
Chi chi nghe đến tấm lòng xiêu
Chập trỗi tỳ bà oán hận nhiều
Riêng trách chẳng vàng người vẽ tượng(33)
Tây than không bạc nịnh mua yêu
Đất Hồ hoa trổ mùi hương lịch
Trời Hán trăng tròn bóng xế theo
Bao dặm Ngọc Quan(34) tình mãi đượm
Mưa sầu gió thảm thuở Ban Siêu(35)

3. TTQNTT: Tự trách chẳng vàng người vẽ tượng. Đây theo QÂTHT.

5. QÂTHT: Đất Hồ hoa mùi khôn lạt

7. TTQNTT: Bao dặm Ngũ quan tình mãi đượm

QÂTHT: Bao quản Ngọc quan tình mấy dặm. Đây tạm hiệu đính lại

8. QÂTHT: Mưa sầu gió thảm buổi ban triêu. Đây theo QÂTHT.

X
Ban Siêu bên núi bóng cờ giơ
Tuyết trải năm ba hỡi đợi chờ
Ngù dựng ác vàng(36) lòng có Hán
Giải treo tuyết bạc mắt không Hồ
Chống sương một cán cây ngay thẳng
Dãi gió năm canh ngọn phất phơ
Vội hỏi xanh xanh kia biết chăng
Thời nào về đặng nước nhà xưa.

1. TTQNTT: Ban triêu bên núi bóng cờ giơ. Đây theo QÂTHT.

2. TTQNTT: Tuyết sạch trăm thư hãy đợi chờ. Đây theo QÂTHT.

3. QÂTHT: Lố dạng ác vàng lòng có Hỡn

4. TTQNTT: Giải treo tuyết bạc thấy chăng Hồ

QÂTHT: Liếc coi tuyết bạc mắt không Hồ. Đây tạm hiệu đính lại như trên.

5. QÂTHT: Chống sương một cán cờ ngay thẳng.

6. QÂTHT: Chải gió năm canh dạ phất phơ

7. QÂTHT: Vái hỏi xanh xanh kia biết chăng

8. QÂTHT: Ngày nào về đặng nước nhà xưa.

XI
Nước nhà xưa có phụ chi ai
Nhắn với bao nhiêu kẻ cõi ngoài
Gắng sức dời non khoan nói tướng
Trải lòng nâng vạc(37) mới rằng trai
Nắng sương chưa đội trời chung một
Sông núi đừng cho đất rẽ hai
Giúp cuộc Tũ Thang(38) ra sức đánh
Người coi để tiếng nhắc lâu dài.

2. QÂTHT: Cậ y với bao nhiêu kẻ cõi ngoài

3. QÂTHT: Gắng sức dời nang khoan nói tướng

4. TTQNTT: Trải lòng vực nước mới là trai. Đây theo QÂTHT.

6. TTQNTT: Sông bể đừng cho đất rẽ hai. Đây theo QÂTHT.

8. TTQNTT: Người xem để tiếng nhắc lâu dài. Đây theo QÂTHT.

XII
Lâu dài mong trả nợ quân thân(39)
Bao quản đường xa gánh nặng oằn(40)
Chớp lụy anh hùng khi tác biệt(41)
Bày lòng trung nghĩa đạo vi thần(42)
Con ve mấy chặp hơi kêu hạ
Cái võ(43) năm canh tiếng khóc xuân
Gió thảm mưa sầu đang dập dã
Bút hoa mượn ráp sự cùng căn(44)

1. QÂTHT: Lâu dài mong trả nợ quân thần

2. QÂTHT: Bao quản đường xuân gánh nặng hoằn

3. TTQNTT: Lệ vấy anh hùng khi tác biệt. Đây theo QÂTHT.

5. QÂTHT: Con ve mới đứt hơi kêu hạ

6. QÂTHT: Cái võ canh tiếng khóc xuân

8. QÂTHT: Bút hoa mượn chép sự khùng khằng

XIII
Cùng căn những tưởng sự lăng xăng
Gió tối mưa mai gẫm chẳng bằng(45)
Bến nước mười hai đưa chiếc lá
Đất trời ba bảy giại con trăng(46)
Thương đây lại dặn đừng thương lảng(47)
Nhớ đó thôi thì chớ nhớ nhăng
Mối nợ sự duyên e khó hỏi
Trước sau cũng một tấm lòng chăng

1. QÂTHT. Khùng khằng lại giận đứa lăng nhăng

2. QÂTHT: Sấm tối mưa mai gẫm chẳng bằng

3. TTQNTT: Bể nước mười hai đưa chiếc lá. Đây theo QÂTHT.

4. QÂTHT: Đất trời ba bảy đợi con trăng

5. TTQNTT: Thương đây lại dặn đừng thương nhớ. Đây theo QÂTHT.

6. QÂTHT: Nhớ đó thôi thì chớ nhớ sang

7. TTQNTT: Mối nước sự duyên e khó hỏi

QÂTHT: Mối nợ sự duyên ai có hỏi. Đây tạm hiệu đính lại như trên.

8. QÂTHT: Xưa nay cũng một tấm lòng chăng.

XIV
Tấm lòng chẳng phải phải phân trần
Ít nói là người dưỡng tính chân(48)
Đã bện bó rơm làm đứa qủy
Lại trau cục đá tượng ông thần
Dầu chưa đất phấn(49) tô gương mặt
Sẵn có cây da(50) cậy tấm thân
Cũng muốn đem mình đi thế ấy
Đem mình thế ấy cũng bần thần

1. TTQNTT: Tấm lòng chưa tỏ phải phân trần. Đây theo QÂTHT.

8. QÂTHT: Đem mình đi thế ấy bần thần.

XV
Bần thần lại giận đứa xung xăng(51)
Quán Sở lầu Tần(52) đã mấy trăng
Rỡ rỡ mưa xuân hang đã lấp
Chang chang nắng hạ lửa đang hừng
Thu trao thư nhạn(53) lời no ấm
Đông gặp tin mai(54) chuyện khó khăn
Trời đất bốn phương non nước đó
Làm chi nên nỗi sự băn khoăn.

3. QÂTHT: Phơi phới mưa xuân hang dễ lấp

7. QÂTHT: Trời đất bốn phương non nước ấy

8. QÂTHT: Làm chi nên nỗi việc lăng nhăng

XVI
Băn khoăn bữa diếp(55) sự hoang đàng
Tiệc ngọc thuyền hoa bạn đãi đằng
Than phận linh đinh đao thớ lợ
Cười duyên lỏng lẻo liễu xây quàng
Con trăng nhắm bóng cây mai bạc
Dì gió đưa duyên đóa cúc vàng
Ơn đội chúa xuân cơn gặp gỡ
Khay tiền chén rượu dám mê man

1. QÂTHT: Lăng nhăng bữa díp sự hoang đàng

4. QÂTHT: Trách duyên lạt lẽo liễu xây quanh

6. TTQNTT: gió đưa duyên đóa cúc vàng. Đây theo QÂTHT.

8. QÂTHT: Cây tiền chén rượu giáng mê man.

XVII
Mê man cho đến bực là tiên
Năm đấu trăm bài(56) giả dạng điên
Vui sẵn trước hoa vài đoá bạc
Lo chi trong dãy một văn tiền
Lưu Linh vợ lạy không thôi chén(57)
Lý Bạch vua kêu chẳng xuống thuyền(58)
Hầu muốn học đòi theo thế ấy
Song lo thời thế hãy chưa yên.

1. QÂTHT: Mê man cho đến bụt là tiên

2. TTQNTT: Năm đấu trăm bài giả trọc điên

QÂTHT: Năm đấu năm bài giả dạng điên. Đây tạm hiệu đính lại.

3. QÂTHT: Vui sãng trước hoa vài đóa cúc

4. QÂTHT: Lo chi trong đãy một đồng tiền

5. QÂTHT: Lưu Linh vợ lạy không buông chén

QÂTHT: Lưu Linh vợ lạy khôn thôi chén. Đây tạm hiệu đính lại như trên.

7. TTQNTT: Hầu muốn học đòi đem thế ấy. Đây theo QÂTHT.

8. QÂTHT: Song o vì thế hãy chưa yên.

XVIII
Chưa yên ta phải tính làm sao.
Cơm áo ngồi không dễ đặng nào
Phải mượn bình sương trừ giặc cỏ
Lại đem trận gió phất cờ lau
Đất yên cõi Việt rừng nho rậm
Trời giúp nhà Ngu(59) biển thánh cao
Mới rõ tài non đền nợ nước
Dám đâu nói chuyện ẩn nguồn Đào(60)

3. TTQNTT: Mượn lấy binh sương thăm giặc cỏ. Đây theo QÂTHT.

6. TTQNTT: Trời tỏ nhà Ngô bể thánh cao. Đây theo QÂTHT.

7. QÂTHT: Mới biết tài non đền nợ nước.

XIX
Nguồn Đào nghe nói chuyện vui mừng
Riêng chiếm yên hà(61) một cõi xuân.
Năm tháng dời hay sau chúa Tấn
Cháu con sách đọc trước vua Tần
Vài dây ruộng ở không đo mẫu
Trọn kiếp người sinh chẳng thuế thân
Núi khéo làm hang dung đứa lậu
Sao bằng trong nước có quân thần.

XX
Quân thần Nam Việt nghĩa vuông tròn
Một mối tay thu tám cõi còn
Chúa ví Thiếu Khang đam xã tắc
Tôi phen Đông Hán dựng sông non(62)
Chín trùng đòi bữa ra ơn thắm
Ba bực ghe phen trải dạ son(63)
Mừng thấy nước nhà nay thịnh trị
Quân thần Nam Việt nghĩa vuông tròn.

4. TTQNTT: Tôi phen Đông Hán dựng nước non. Đây tạm hiệu đính lại như trên.

Nhìn chung, bản TTQNTT chưa phải là một văn bản tối ưu, nhưng rõ ràng nó đã góp phần quan trọng trong việc làm sáng tỏ ý nghĩa cụm thơ Nôm liên hoàn lúc đi sứ của Trịnh Hoài Đức. Với hai bài XIX và XX trên đây, văn bản tác phẩm này đã có thể coi như hoàn chỉnh. Từ câu đầu bài I "Vuông tròn trời đất nói sao cùng" đến câu cuối bài XX "Quân thần Nam Việt nghĩa vuông tròn", chuỗi từ ngữ trong tác phẩm quả đã xếp thành một cái vòng (hoàn) liên lạc (liên).

Một vấn đề có thể đặt ra ở đây là hoàn cảnh và thời điểm ra đời của 20 bài thơ liên hoàn nói trên. Sau khi tới Trung Quốc, Trịnh Hoài Đức đã gặp một người "cố nhân" nào đó rồi mới viết tác phẩm này "Giờ gặp cố nhân bày khoản khúc" (bài I). Người "cố nhân" này chắc chắn phải là một người Việt để ông có thể "bày khoản khúc" bằng tiếng Việt - thơ Nôm. Nhưng người ta thấy ông nhắc tới sự kiện "Tháng Tý ngày Dần tới Áo Môn" (bài II), nghĩa là 20 bài thơ nói trên phải được sáng tác sau tháng 11 năm Nhâm Tuất 1802, mà từ tháng 10 sứ bộ Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Huỳnh Ngọc Uẩn đã khởi hành từ Quảng Đông sang Quảng Tây chờ gặp sứ bộ cầu phong của Lê Quang Định, Nguyễn Gia Cát, Lê Chánh Lộ để cùng nhau lên Yên Kinh: và hai đoàn sứ bộ đã gặp nhau ở Quế Lâm (Quảng Tây) vào dịp Tết Âm lịch Quý Hợi (1803), tính ra cũng đúng nửa năm kể từ khi Trịnh Hoài Đức đặt chân lên đất Trung Quốc "Tháng bảy ngày rằm tới Quảng Đông", "Nửa năm cơm nước đôi tên khách" (bài I). Những dữ kiện trên đây cho phép đoán định rằng 20 bài thơ Nôm liên hoàn của Trịnh Hoài Đức đã được sáng tác sau khi ông gặp sứ bộ Lê Quang Định: người "cố nhân" Việt Nam mà ông đã "xa xôi mấy tháng trường" (bài V) và mỏi mắt trông nhau qua "ngàn dặm non sông" (bài I) đây chính là Lê Quang Định, người vốn cùng ông và Ngô Nhơn Tịnh có mối giao tình từ trước đồng thời là người mà sự có mặt đã làm nên cuộc hội ngộ kỳ thú trên đường đi sứ của nhóm Gia Định tam gia.

CHÚ THÍCH

(1) Về thơ chữ Hán của Trịnh Hoài Đức, trước nay nhiều người vẫn lẫn lộn giữa Gia Định tam gia thi tập, Cấn Trai thi tập Bắc sứ thi tập. Thật ra, Gia Định tam gia thi tập là tên gọi chung của ba tập thơ: Cấn Trai thi tập của Trịnh Hoài Đức (khắc in năm Gia Long thứ 18 -18?9). Hoa nguyên thi thảo của Lê Quang Định và Thập anh thi tập của Ngô Nhơn Tịnh (đều khắc in năm Minh Mạng thứ 3-1822); cả ba tập cùng do Trịnh Hoài Đức cho khắc in, vì lúc bấy giờ hai người kia đã chết. Riêng Cấn Trai thi tập gồm ba phần: Khả dĩ tập, Quan quang tập, Thóai thực truy biên tập, trong đó Quan quang tập (với ý nghĩa "Quan quốc chi quang", xem văn vật chế độ của một nước) chính là phần vẫn được gọi là Bắc sứ thi tập.

(2) Chẳng hạn bài thơ ngũ ngôn cổ điệu tặng Hòa thượng Viên Quang mà Nguyễn Liên Phong có chép trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, Phát Toán, Sài Gòn, 1909, cuốn thứ nhất, tr.28, hay đôi liễn ở đình Minh Hương Gia Thạnh (Sài Gòn) mà Nam Xuân Thọ có giới thiệu phần phiên âm Việt Hán trong Võ Trường Toản (phụ Gia Định tam gia), Tân Việt, Sài Gòn, 1957, tr.47.

(3) Theo Lê Quang Chiểu, Quốc âm thi hiệp tuyển, Sài Gòn, 1903, tr.63 và Lê Sum, Việt âm văn tuyển, Sài Gòn, 1919, tr.53.

(4) Theo Phan Thiết, Nam thi hiệp tuyển, Sài Gòn, 1948, tr.8. Nhưng theo nhóm Huỳnh Lý, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập IV (1858-1920), Quyển I, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984, tr.60 thì bài này là thơ của Huỳnh Mẫn Đạt.

(5) Lê Quang Chiểu, Quốc âm thi hiệp tuyển, Sđd, tr.12. Nguyên văn 18 bài thơ này ở tr.12-18.

(6) Nam Xuân Thọ, Võ Trường Toản (phụ Gia Định tam gia). Sđd, tr.24-28. Nguyên văn 18 bài thơ này ở tr.49-57.

(7) Tháng bảy ngày rằm tới Quảng Đông: Năm 1802, sau khi chiếm được Phú Xuân, chính quyền Nguyễn Ánh cử sứ bộ Trịnh Hoài Đức đem quốc thư cùng ấn sách của Tây Sơn qua nộp vua Thanh, chính thực đặt quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn với Trung Quốc. Sứ bộ đi hai chiếc thuyền Bạch Yến và Huyền Hạc ra khỏi cửa Thuận An từ tháng 4 âm lịch năm ấy, nhưng vì gặp bão nên tháng 7 mới tới cửa Hổ Môn tỉnh Quảng Đông.

(8) Bốn cái tròng: bốn con mắt, ý nói hai người trông ngóng nhau.

(9) Khoản khúc: nỗi lòng gắn bó, đây chỉ nỗi nhớ nhung.

(10) Tháng Tý ngày Dần tới Áo Môn: Tháng Tý tức tháng 11 âm lịch. Tháng 11 âm lịch năm 1802 có hai ngày Dần: Mậu Dần (ngày 11) và Canh Dần (ngày 23), ngày Dần đây có lẽ là ngày Mậu Dần. Áo Môn tức Ma Cao, thuộc tỉnh Quảng Đông, chỗ góc phía nam tam giác cửa sông Việt Giang. Tháng 10 âm lịch năm 1802, sứ bộ Trịnh Hoài Đức được lệnh từ Quảng Đông theo đường Thủy sang Quảng Tây chờ gặp sứ bộ Lê Quang Định để cùng nhau lên Yên Kinh, có lẽ sang tháng 11 mới bắt đầu vào cửa Áo Môn.

(11) Chẳng sau chẳng trước chẳng đen mòn: Chẳng sau chẳng trước lấy ý câu của Lão Tử trong Đạo đức kinh: "Nghênh chi bất kiến kỳ thủ, tùy chi bất kiến kỳ hậu" (Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi). Chẳng đen mòn lấy ý câu của Khổng Tử trong Luận ngữ, Dương Hóa "Bất viết kiên hồ ma nhi bất lân, bất viết bạch hồ niết nhi bất chi" (Chẳng phải là cứng sao mài mà chẳng mòn, chẳng phải là trắng sao nhuộm mà chẳng đen). Đây ý nói đến "đạo", khái niệm người xưa thường dùng để chỉ chân lý, quy luật khách quan có tính chất tuyệt đối, vĩnh cửu; khái niệm này được Nho gia vận dụng vào đời sống xã hội để chỉ phận sự, trách nhiệm của con người.

(12) Năn nỉ: than thở (từ cổ). Xem thêm câu bài IV.

(13) Ít sống xưa nay người bảy chục: Dịch câu thơ của Đỗ Phủ "Nhân sinh thất thập cổ lai hy" (Người sống bảy mươi xưa nay hiếm).

(14) Năm ba: năm tức "năm đạo thường" (ngũ thường) là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; ba tức "ba giềng" (tam cương) là vua tôi, cha con, vợ chồng. "Tam cương ngũ thường" chỉ chung các quan hệ xã hội và chuẩn mực ứng xử cơ bản của con người theo quan niệm Nho gia.

(15) Dầm vàng: dầm tức màu dầm xanh, chỉ trời; vàng tức màu vàng, chỉ đất. Dầm vàng đây có nghĩa như trời đất.

(16) Đã cam... đứa bất tài: Nam hoa kinh chép Trang Tử đi trong núi, thấy một cây lớn, cành lá rậm rạp, nhưng người đốn cây đứng ngay bên cạnh mà không đốn. Hỏi duyên cớ, người ấy nói vì cây không dùng được vào việc gì cả (vô sở khả dụng), Trang Tử nói: "Cây này vì bất tài nên được sống trọn tuổi trời" (Thử mộc dĩ bất tài, đắc chung kỳ thiên niên). Khá nệ: nghĩa như chớ nệ. Hai câu này có ý nói thà chịu tiếng vô dụng, bất tài mà được yên ổn, an nhàn.

(17) Hai trăm năm có lẻ: Hơn hai trăm năm, đây chỉ cơ nghiệp họ Nguyễn Đàng Trong tính từ khi Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa (1558) đến khi Nguyễn Ánh đặt nền thống trị trên toàn cõi Việt Nam (1802).

(18) Phải chăng: dịch chữ "thị phi" (phải và trái, đúng và sai). Xem thêm câu 1 bài XIV.

(19) Ương ương: dở dở, không rõ ra thế nào.

(20) Linh chinh bởi đó gây lắng líu: Linh chinh là bấp bênh không vững, lăng líu là rối rắm.

(21) Mắc mỏ: Vướng mắc.

(22) Thức kiến: hiểu biết.

(23) Sự con cua: Có lẽ đây chỉ việc làm ngang trái, giống con cua đi ngang.

(24) Lo đây cuộc chẳng thu: ý nói là không thắng được.

(25) Dễ đâu chẳng đáp một bàn ru: Một bàn là một ván, ru là ư (nghi vấn từ). Cả hai câu ý nói sẵn sàng vào đời để hành đạo.

(26) Đám ngoan hung: Bọn giặc hung dữ, ngoan cố, đây chỉ Tây Sơn.

(27) Chín trùng chưa khỏe gối: chín trùng dịch chữ "cửu trùng", chỉ vua; khỏe gối dịch chữ "an chẩm", chỉ tình trạng an nhàn, vô sự.

(28) Phân bì: So bì, tỵ nạnh (từ địa phương).

(29) Miệng mỏ: Mồm mép, đây ý nói làm ra vẻ bề ngoài.

(30) Thu hứng, tám bài thơ Đỗ Phủ: Đỗ Phủ là một thi hào nổi tiếng đời Đường có sáng tác tám bài Thu hứng (Cảm hứng cảnh thu)

(31) Vương Duy: hoạ sĩ nổi tiếng đời Đường, sở trường về tranh sơn thủy (phong cảnh).

(32) Cờ bố thưa con học chính sư: Đánh cờ dàn quân thưa như lối đánh trận theo chính đạo, cốt điều động cho giỏi chứ không cốt nhiều. (Câu này và ba câu trên nhắc tới bốn thú vui cầm, kỳ, thi, hoạ của người xưa).

(33) Chẳng vàng người vẽ tượng: Đời Hán Nguyên Đế, trong cung có nhiều cung nữ, vua phải sai vẽ hình dâng lên xem ai đẹp mới cho vào hầu. Các cung nữ vì vậy đều đút tiền cho thợ vẽ để vẽ mình cho đẹp, riêng có Vương Tường (Chiêu Quân) cậy có sắc đẹp, không chịu đút tiền nên bị thợ vẽ vẽ cho xấu đi. Sau Vương Tường bị chọn gả cho chúa Thuyền Vu của Hung Nô. Câu này và câu dưới có ý nói không chịu luỵ để cầu tiếng tốt.

(34) Ngọc Quan: tức Ngọc Môn Quan, một cửa ải phía bắc Trung Quốc, tiếp giáp với đất Hung Nô, Chiêu Quân cống Hồ đi qua cửa ải này.

(35) Ban Siêu: Người đời Hán Minh Đế, đi sứ Tây Vực có công, được phong tước Định Viễn hầu.

(36) Ngù dựng ác vàng: ngù tức ngù cờ; ác vàng dịch chữ "kim ô" (quạ vàng) chỉ mặt trời.

(37) Nâng vạc: dịch chữ "phù cửu đỉnh". Ngày xưa vua Hạ Vũ cho đúc chín cái đỉnh (vạc) làm vật bá truyền quốc, nên về sau người ta dùng chữ "phù cửu đỉnh" để chỉ việc phò vua giúp nước.

(38) Cuộc Vũ Thang: Vũ Thang tức Vũ Vương nhà Chu đánh vua Trụ nhà Ân và vua Thành Thang nhà Ân đánh vua kiệt nhà Hạ, sau dùng ví với những vua có tài đức đánh những vua bạo ngược.

(39) Quân thân: Vua và cha mẹ.

(40) Đường xa gánh nặng oằn: dịch câu "nhiệm trọng nhi đạo viễn" (trách nhiệm thì nặng mà đường thì xa), chỉ phận sự giúp nước lo đời của người trí thức theo quan niệm Nho gia.

(41) Tác biệt: Chia tay.

(42) Đạo vị thần: đạo làm bầy tôi.

(43) Cái võ: tức chim đỗ vũ hay đỗ quyên (chim quốc). Tương truyền vua Thục là Đỗ Vũ mất nước, chết hóa thành chim này, luôn kêu nhớ nước cũ.

(44) Bút hoa mượn ráp sự cùng căn: ráp là nối vào. Cùng căn tức "cùng căn mạc kiếp" (khổ cực hết mức). Câu này có ý nói mượn thơ giải bày nổi khổ tâm.

(45) Chẳng bằng: dịch chữ "bất bình" (không quân bình), ý nói việc đời thay đổi khó lường.

(46) Đất trời ba bảy giại con trăng: ba bảy tức "ba vuông bảy tròn", đây có nghĩa như vuông tròn. Giại là ánh sáng chiếu vào.

(47) Thương lảng: Thương không đúng cách.

(48) Dưỡng tính chân: nuôi cái chân tính, tức tính lành trời cho.

(49) Đất phấn: dịch chữ "phấn thổ", lấy từ câu "tiền tài như phấn thổ" (tiền bạc như cát bụi), đây chỉ tiền bạc.

(50) Cây da: tức cây đa, lấy từ câu "Vì thần phải nể cây da", đây chỉ thần thế.

(51) Xung xăng: Vẻ lung lăng, hung hãn.

(52) Quán Sở lầu Tần: thời Chiến quốc, nước Sở ở phía nam, nước Tần ở phía tây Trung Quốc. Quán Sở lầu Tần đây chỉ cảnh sống trôi nổi, nay đây mai đó, ý nói việc đi sứ phải xa quê hương.

(53) Thư nhạn: Mùa đông chim nhạn bay về nam tránh rét, người xưa nhân đó gọi là "nhạn tín" (chim nhạn báo tin đông), sau dùng chỉ chung thư từ, tin tức.

(54) Tin mai: Vào cuối đông mai nở báo hiệu mùa xuân tới.

(55) Bữa diếp: Bữa trước (từ cổ).

(56) Năm đấu trăm bài: năm đấu chỉ rượu, trăm bài chỉ thơ. Năm đấu trăm bài đây chỉ cảnh sống nhàn tảng phóng dật.

(57) Lưu Linh vợ lạy không thôi chén: Lưu Linh là một trong bảy người ở ẩn ở Trúc Lâm (Trúc Lâm thất hiền) đời Tấn, tính ưa uống rượu. Có lần vợ năn nỉ xin bỏ rượu, ông bảo phải làm một mâm rượu thịt cúng thần mới được phép bỏ. Vợ tưởng thật, sắm sửa đủ lễ vật, Lưu Linh vào lạy lục khấn khứa rồi lại ngả mâm bát ra ăn uống say mềm.

(58) Lý Bạch vua kêu chẳng xuống thuyền: lấy ý hai câu thơ của Đỗ Phủ viết về Lý Bạch "Thiên tử hô lai bất thướng truyền, Tự xưng thần thị tửu trung tiên" (Nhà vua gọi đến không chịu lên thuyền, Tự xưng "thần là tiên trong làng rượu") Lý Bạch là một thi hào nổi tiếng đời Đường, tính phóng khóang, bạn thân của Đỗ Phủ.

(59) Nhà Ngu: Ngu tức Ngu Thuấn, theo truyền thuyết là một vị vua hiền đức thời thượng cổ ở Trung Quốc, trị nước yên ổn, làm cho dân hạnh phúc.

(60) Nguồn Đào: dịch chữ "Đào nguyên" tức "Đào hoa nguyên" (suối hoa đào), chỉ cảnh sống thanh bình, hạnh phúc ở nhân gian.

(61) Yên hà: Khói và ráng, đây chỉ cảnh sống tiêu dao thóat tục.

(62) Chúa ví... sông non: Thiếu Khang là con vua Đế Tương nhà Hạ. Đế Tương bị Hàn Túc giết chết cướp ngôi, vợ Đế Tương mang thai chạy trốn, sinh Thiếu Khang. Sau các bầy tôi cũ của nhà Hạ giết chết Hàn Túc, đưa Thiếu Khang lên làm vua. Đam tức đảm đương, gánh vác. Phen tức sánh ngang. Đông Hán là triều Hán đóng đô ở Lạc Dương, khởi từ Lưu Tú (Hán Quang Vũ). Nhà Hán bị Vương Mãng cướp ngôi, Lưu Tú là tông thất nhà Hán khởi binh giết được Vường Mãng, lên làm vua, sử gọi là Đông Hán để phân biệt với Tây Hán đóng đô ở Trường An, khởi từ Lưu Bang (Hán Cao Tổ).

(63) Ba bực ghe phen trải dạ son: ba bực dịch chữ "tam giai", chỉ chỗ đứng của các quan khi nhà vua thiết triều, đây dùng chỉ kẻ bầy tôi nói chung. Ghe là mấy, vài (từ cổ). Dạ son dịch chữ "đan tâm", chỉ lòng trung thành./.

TB

ĐỌC CUỐN
NGUYỄN KHUYẾN - TÁC PHẨM

ĐỖ THỊ HẢO

Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Khuyến ra đời(1). Nhưng phải công nhận rằng cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm do Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, xuất bản năm 1984. Nguyễn Văn Huyên sưu tầm, biên dịch, giới thiệu là tập sách có nhiều công phu nhất. Sở dĩ đạt được kết quả như vậy là vì soạn giả đã kế thừa được khá nhiều tinh hoa của lớp người đi trước và đặc biệt đã cố gắng khai thác kho tư liệu tiềm tàng và rất phong phú ở địa phương.

Về mặt khối lượng, cuốn sách khá dày dặn. Trong sách có 86 bài thơ Nôm, 267 bài thơ chữ Hán, 6 bài thơ tác giả dịch của người khác và 67 đôi câu đối cả chứ Hán và chữ Nôm. Đặc biệt trong tập sách này lại có thêm 6 bài văn xuôi (văn sách, văn tế, ký, tựa...) mới sưu tầm được. Soạn giả đã thể hiện được mặt mạnh của mình trong việc khai thác các tư liệu địa phương, tham khảo được rất nhiều bản chép tay do các cụ lão nho và các gia đình yêu mến Nguyễn Khuyến lưu trữ. Soạn giả giám định các tài liệu ở kho sách Hán Nôm và đã phát hiện ra tập sách mang ký hiệu VHv.1864 là tập sách lâu nay chưa được ai nhắc đến.

Về phần trích dẫn các văn bản, soạn giả cũng tỏ ra công phu và nghiêm túc. Dưới mỗi bài ông thường chua ký hiệu của nhiều bản để chứng tỏ mình đã cân nhắc, chọn lọc kỹ, thí dụ như bài văn Nôm Khóc Dương Khuê (tr.158) ông dẫn đến 5 văn bản gồm A.469, A.3160, AB.386, AB.443, VHv.2384. Phần khảo dị cũng ghi tới 20 trường hợp. Về các chú thích, ưu điểm rõ nét là soạn giả diễn đạt gọn và rõ. Ông cố gắng chọn lọc những bài dịch tương đối đạt để đưa vào sách, và bản thân ông cũng cố phấn đấu để hướng theo văn phong Yên Đổ trong quá trình xử lý những bài dịch. Tất nhiên đạt được văn phong ấy để cho những bài văn dịch đạt được ý tình của nguyên tác không phải là chuyện dễ dàng.

Tuy nhiên một công trình tư liệu dồi dào và phong phu như vậy mà lại chỉ do một người vừa sưu tầm vừa biên dịch và giới thiệu thì tất nhiên khó có thể toàn bích được. Riêng trong lĩnh vực văn bản, việc công bố và giới thiệu tác phẩm của Nguyễn Khuyến lại dễ gặp những trường hợp khó khăn hơn, bởi từ lâu tác phẩm của Nguyễn Khuyến đã rất được phổ biến, mà càng phổ biến thì tình trạng văn bản lại càng dễ tam sao thất bản. Sinh thời Nguyễn Khuyến chưa cho xuất bản sách của mình; Ông lại là một nhà thơ được nhiều người yêu mến, vì thế tình trạng dị bản hóa hay gán ghép rất dễ xảy ra.

Như trên đã nói, soạn giả Nguyễn Văn Huyên có ưu điểm là chú ý khai thác được nhiều tuyển tập thi lục, nhưng ông lại không cho người đọc biết rõ tình hình cụ thể các bản sao chép ấy, giá trị tin cậy của chúng đến mức nào, vì sao có thể lấy bản cụ thể nào đó làm căn cứ để khảo dị v.v..

Rất nhiều sách chữ Hán ở kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã được ông đọc và sử dụng đến. Thế nhưng các tác phẩm Nguyễn Văn Huyền trích dẫn đều là những tập sưu tầm mà người soạn chỉ bằng vào sự nghe ngóng của mình để ghi chép chứ không qua khâu thẩm tra kê cứu. Những sách như Quốc văn tùng ký,Việt túy tham khảo, Hải vân am thi tập là thuộc loại đó. Những tập sách chép "thơ văn Hán Nôm của nhiều nhà" này thường có tình trạng lầm lẫn tác phẩm của người này với người khác vả lại không cho ta những căn cứ gì để chấp nhận hay sàng lọc cả.

Sách của các gia đình và tài liệu riêng của các cụ ở địa phương do yêu thơ văn Nguyễn Khuyến mà ghi chép lại đều là những tài liệu rất quý, song rất dễ hiểu là phương pháp sưu tầm ở đây có nhiều hạn chế. Người ghi chép thường theo trí nhớ chủ quan của mình, dễ nghe theo những truyện truyền văn ở địa phương hơn là theo một nguyên tắc khoa học. Ở đây có thể có một số trường hợp đáng quý, một số phát hiện bất ngờ (chẳng hạn những ghi chép có tính chất hồi ký của những người sống đồng thời với tác giả). Nhưng cũng lại có rất nhiều trường hợp phải nghi vấn; nhất là đối với một người có uy tín, có thơ văn được truyền tụng rộng rãi như Nguyễn Khuyến. Sử dụng những tài liệu này cần phải được giám định rất công phu, nếu không sẽ đưa tới nhiều lầm lẫn. Trường hợp giám định văn bản Yên Đổ Tiến sĩ thi tập ký hiệu VHv.1884 là một thí dụ. Soạn giả hầu như thoả mãn về việc phát hiện ra tác phẩm này; một tài liệu mà lâu nay chưa ai nhắc đến. Ông dành đến 4 trang giới thiệu văn bản ấy và đi đến kết luận có thể bản thân Yên Đổ "sắp xếp lại tác phẩm của mình" qua sách này. Song những lý do Nguyễn Văn Huyền nêu ra đều là những đoán định về phương diện tâm lý: sự "trăn trở", sự "định hình bản sắc" v.v.. đều thuộc vào nội dung thể hiện của thơ ca chứ không phải là những chỗ dựa chắc chắn để xác định tác phẩm về mặt văn bản học. Đó là chưa nói đến thực tế ta khó mà chấp nhận được đây là cuốn sách do Yên Đổ tự sắp xếp lấy. Ngay cái tên "Yên Đổ Tiến sĩ thi tập" rõ ràng đã không phù hợp với cách đặt tên sách của các nhà nho, nó có phần lộ liễu và thiếu khiêm tốn. Huống hồ phần cuối sách còn có thêm tác phẩm của người khác: một người đi sứ và một người tên hiệu là Định Trai (không hiểu có phải là ông Nghè Thượng Cốc không?). Theo chúng tôi, đây có lẽ cũng chỉ là một cuốn sao lục như các cuốn sao lục khác chứ chưa có gì thuyết phục để công nhận được Yên Đổ Tiến sĩ thi tập là do chính tay Yên Đổ thu thập, sắp xếp lại tác phẩm của mình.

Thêm nữa, cuốn sách của Nguyễn Văn Huyền vẫn chưa cho chúng ta thêm được những cứ liệu mới để giải đáp những nghi vấn trước đây về tác phẩm cả phần Nôm lẫn phần Hán của Nguyễn Khuyến. Chỉ xin đưa ra một vài trường hợp và so sánh với những sách đã xuất bản để thấy điều vừa nói.

Về thơ Nôm.

+ Bài học trò ngủ gật: Tập Thơ văn Nguyễn Khuyến (1971) công nhận bài này là của Nguyễn Khuyến. Nhưng trong phần chú thích lại nói là của Lê Hải Châu. Vừa chấp nhận lại vừa phủ nhận như vậy, người đọc không hiểu sao cả. Lần này Nguyễn Văn Huyền chú là: căn cứ vào các bản AB.383; VHv.2381, có thể khẳng định bài thơ trên là của Nguyễn Khuyến (bài số 15). Soạn giả chỉ nói chung chung như vậy thì người đọc dựa vào đâu để có thể biết chắc bài này là của Yên Đổ?

+ Bài Tặng bà Thâu Cẩm (tr.169): Nguyễn Văn Huyền căn cứ theo hai bản ký hiệu HS và NKT cũng chấp nhận đây là tác phẩm của Yên Đổ, như nhận định của nhóm biên soạn Thơ văn Nguyễn Khuyến trước đây. Nhưng trong Nguyễn Khuyến nhà thơ kiệt xuất, Văn Tân lại ghi đầu đề là: Tặng một bà đáo để ở làng, và tỏ ý nghi ngờ. Bài này không rõ có thật là của Nguyễn Khuyến hay không (tr.200).

Về thơ chữ Hán:

Lần này Nguyễn Văn Huyền giới thiệu rất nhiều thơ vịnh sự, vịnh phong cảnh của Nguyễn Khuyến và chỉ nêu ra những chi tiết về chức vụ và đời tư của Nguyễn Khuyến, chứ không căn cứ theo gốc độ văn bản học để chứng tỏ minh, vì vậy người đọc thấy rất phân vân Trường hợp người danh tiếng lẫy lừng như Nguyễn Khuyến tại sao những loại thơ này cho đến nay lại không có bài nào được người ta biết đến cả? Tất nhiên không có lý do gì để bác bỏ, nhưng căn cứ văn bản (qua các văn bản mà Nguyễn Văn Huyền đã công bố) thì vẫn đề cũng vẫn phải chờ tiếp tục tìm tòi thêm.

- Về câu đối và giai thoại: Có những điều cần thận trọng hơn. Đây cũng là vấn đề chung như trường hợp các nhà thơ lớn ở nước ta, từ Lê Thánh Tông đến Hồ Xuân Hương, Tú Xương, rất nhiều văn bản đã bị gán ghép hoặc biến hóa thành nhiều dị bản. Vấn đề không thể nóng vội mà cần có sự đóng góp chung của nhiều người, nhiều ngành mới được. Với những phát hiện kê cứu mới, đến nay chúng ta đã loại được những bài như: Văn tế Phancis Garnier mà trước đây vẫn cho là của Yên Đổ. Song trường hợp thơ Nôm và giai thoại, nhất là câu đối của Nguyễn Khuyến vẫn còn rất nhiều vấn đề tồn tại mà theo ý chúng tôi, giới nghiên cứu sưu tầm nên thống nhất với nhau một số phương hướng và biện pháp để giúp cho các thế hệ tiếp sau có điều kiện phát huy khai thác một cách thuận lợi hơn. Không ai dám cả quyết rằng ý kiến của mình mới thực là đầy đủ, chính xác, dù là căn cứ vào gia phả hay dựa theo ý của người này người kia để khẳng định được. Có lẽ đối với thơ văn Nguyễn Khuyến, phải kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu may ra mới đem lại những kết quả gần với sự thật hơn.

Chúng tôi chỉ xin phép nêu qua như vậy để cho rộng đường ngôn luận, và cũng muốn gợi ý là ở đây giới văn bản học trông cậy rất nhiều ở giới phê bình và nghiên cứu trong việc xác định phong cách nhà văn. Xung quanh những câu chuyện về câu đối tặng cô Tư Hồng, về bài thơ chế anh đồ mắc lừa gái... và nhiều bài khác, thực ra đều không đơn giản. Về điểm này, ý kiến nhà văn đã quá cố Nguyễn Công Hoan rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Trên Tạp chí văn học số 5 - 1972, Nguyễn Công Hoan đã đính chính lại nhiều giai thoại xung quanh Nguyễn Khuyến với nhiều chứng lý có khả năng thuyết phục. Điều rất đáng lưu tâm trong ý kiến của Nguyễn Công Hoan là ông dựa vào sự hiểu biết tâm lý, hoàn cảnh của xã hội xưa mà giám định lại những chuyện truyền văn, câu đối... Thí dụ với các câu đối nói về nghề nghiệp như thợ rèn, hàng thịt, thợ nhuộm, cô đầu... Nguyễn Công Hoan đoán rằng phần lớn là do người nào đấy làm rồi sau đó nhân dân gán ghép cho Nguyễn Khuyến. Nguyễn Công Hoan đề nghị phải nghiên cứu cho kỹ lưỡng xem những loại câu đối như trên có thực là của Nguyễn Khuyến làm ra hay không? Nếu không thì phải bỏ đi (tr.128). Nguyễn Công Hoan còn có một nhận xét: "Bất cứ ai làm câu đối phúng hoặc làm hộ câu đối phúng cũng không vô ý thức đến nỗi lợi dụng cơ hội, bới móc người chết cho người sống nghe để mà cười" (cùng trang trên). Nếu ta đồng ý với Nguyễn Công Hoan, thì rất nhiều câu phúng viếng mỉa mai, được xem là của Nguyễn Khuyến rất khó mà đi ngược lại được với sự công nhận lâu nay. Một số quyển sách đã thận trọng xếp loại này vào phần giai thoại và để khuyết danh. Hoặc có ghi tên Yên Đổ thì cũng để trong phần tồn nghi. Như thế cũng là một cách giải quyết thoả đáng khi ta chưa có điều kiện để xác minh được văn bản một cách đầy đủ.

Điều cuối cùng chúng tôi muốn đề cập tới là với một cuốn sách mà soạn giả đã mất rất nhiều công phu như cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm nếu như giới thiệu thêm được một vài trang ảnh thủ bút của tác giả và ở cuối sách có phần Sách dẫn thì sẽ giúp ích được nhiều hơn nữa cho bạn đọc.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Hoàng Ngọc Phách, Lê Trí Viễn, Lê Thước: Văn thơ Nguyễn Khuyến, Nxb Giáo dục, 1973; Thơ văn Nguyễn Khuyến; Nxb Văn học, 1971; Văn Tân: Nguyễn Khuyến nhà thơ Việt Nam kiệt xuất, Nxb Văn Sử Địa.

TB

TU SỬA TÔN TẠO ĐỀN NGỌC SƠN
HÀ NỘI

Đền Ngọc Sơn được xây dựng từ thời nhà Trần để ghi công tích ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông và người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Trước khám thờ Hưng Đạo ở hậu cung hiện còn đôi câu đối bằng cả chữ Hán lẫn chữ Nôm, tạm phiên dịch như sau:

"Vũ lược luyện hùng binh, Lục thủy nghìn thu ghi sử Việt.
Văn tài mưu Thượng tướng Bạch Đằng một trận thắng quân Nguyên".

Đời Lê Vĩnh Hựu (1735) ngôi đền bị đổ, nhân đó Trịnh Giang cho dựng cung Thụy Khánh trên nền cũ của đền Ngọc Sơn rồi cho đắp hai quả núi đất ở bờ hồ phía đông lối vào đền và đặt tên là Đào Tai và Ngọc Bội. Ở hai cột ngoài cùng của di tích còn đôi câu đối:

Lâm thủy đăng sơn nhất lộ tiệm nhập giai cảnh
Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang.

Tạm dịch:

Lội nước trèo non đường này lần vào cảnh đẹp
Tìm nguồn hỏi gốc trong đây sẵn có phong quang.

Đến đời Lê Chiêu Thống, cung Thụy Khánh bị phá hủy. Sau đó nhân dân quanh vùng đảo Ngọc quyên góp tiền tu sửa làm nơi thờ Phật.

Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) nơi thờ Phật này chuyển thành nơi thời Tam thánh.

Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã tu sửa đền và cho xây thêm một số công trình phụ tại đây như Tháp bút, Đài nghiên, Cầu thê húc và Trấn ba đình.

Sau khi hoàn thành việc tu tạo, Nguyễn Văn Siêu đã dựng tấm bia lớn tại nhà Trấn ba đình. Đền Ngọc Sơn trải qua bao biến đổi của lịch sử và bao lần tu bổ, đã lắng động tại đây một phần vẻ đẹp truyền thống dân tộc.

Ở thời đại chúng ta, đền Ngọc Sơn đã được bảo tồn xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Năm 1986, ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã duyệt chủ trương tu sửa tôn tạo đền Ngọc Sơn thành luận chứng kinh tế kỹ thuật. Chủ trương này đã được Phòng Bảo tồn Bảo tàng Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đề xuất kế hoạch thực hiện trong 4 năm 1987-1990.

Theo kế hoạch thì công việc tu sửa tôn tạo sẽ tiến hành từng bước:

- Kè cặp xung quanh đảo Ngọc Sơn để chống xói lở, giữ ổn định chân đảo.

- Phiên âm, dịch nghĩa các tài liệu Hán Nôm hiện có ở đền và khắc bia đã biển đồng để người đến tham quan hiểu được số tài liệu Hán Nôm này.

- Tôn tạo lại Tháp rủa, tạo sinh vật cảnh, trồng lại theo quy hoạch những cây có 4 mùa hoa ở xung quanh hồ Hoàn Kiếm.

- Bảo tồn các di tích bao quanh như: chùa Vũ Thạch, chùa Bà Đá, tháp Hòa Phong, đền Bà Kiệu, tượng và đền thờ vua Lê, đền Thụy Khánh, tạo thành một quần thể di tích nổi tiếng về hồ Gươm.

Để thực hiện kế hoạch này, phòng Bảo tồn Bảo tàng Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã hợp tác chặt chẽ với Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hội Kiến trúc sư Việt Nam, Cục Bảo tồn Bảo tàng Bộ Văn hóa, Ban Việt kiều Trung ương, Ban Việt kiều Hà Nội, Tổ chức Hội nhà báo Việt kiều ở nước ngoài (Cộng hoà liên bang Đức và Ca-na-đa).

Hiện nay kế hoạch bước đầu đang được triển khai. Các Giáo sư, Kiến trúc sư, các đồng chí lãnh đạo Sở Văn hóa và Hội Việt kiều đã thông qua bản dịch các tài liệu Hán Nôm và cho tiến hành việc khắc bia đá biển đồng.

Ăng Ghen từng nói: "Đánh thức quá khứ dậy làm cho người chết sống lại, tham gia vào cuộc đấu tranh trước mắt". Đến đền Ngọc Sơn, ta cảm thấy đâu đây dư âm của những thời oanh liệt đã qua, hào khí Đông A vọng về từ lòng đất... Sau đợt tu bổ tôn tạo này, di tích Ngọc Sơn sẽ góp phần làm đẹp thêm bộ mặt đang từng bước đổi mới của Thủ đô.

TB

HỘI NGHỊ THÔNG BÁO KHOA HỌC THUỘC CHUYÊN NGÀNH HÁN NÔM

Để tiến tới kỷ niệm 70 năm Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười và 20 năm thành lập ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, vừa qua, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tổ chức Hội nghị thông báo khoa học về những thành tựu mới thuộc chuyên ngành Hán Nôm.

Giáo sư Tiến sĩ Phạm Huy Thông, Phó chủ nhiệm ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam đã đến dự. Dự hội nghị, còn có đông đảo các vị Giáo sư, Tiến sĩ, chuyên gia, cán bộ nghiên cứu và giảng dạy thuộc ngành Hán Nôm và một số ngành khoa học có liên quan.

Giáo sư Trần Nghĩa, Quyền Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm đọc báo cáo khoa học Những thông tin mới của ngành Hán Nôm những năm gần đây. Bản báo cáo gồm 3 phần:

1. Những tác phẩm và tư liệu Hán Nôm quí mới phát hiện.

2. Những công trình khai thác và nghiên cứu Hán Nôm xuất bản những năm gần đây.

3. Triển vọng của ngành Hán Nôm những năm tới.

Giáo sư, Tiễn sĩ Nguyễn Quang Hồng, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm trình bầy công trình nghiên cứu về Quốc âm tân tự, một phương án ghi âm tiếng Việt thế kỷ XIX (Nguyên văn xem Tạp chí Hán Nôm số I/1986).

Đồng chí Trần Khang, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm báo cáo về những kết quả sưu tầm và bảo quản Thư tịch và Tư liệu của Viện những năm vừa qua.

Cụ Ngô Linh Ngọc, nhà văn Trần Lê Văn, nhà sử học Chương Thâu, Giáo sư Phan Ngọc, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn, Giáo sư Vũ Ngọc Khánh, Giáo sư Đặng Đức Siêu, Giáo sư Vương Lộc, đồng chí Trần Lê Sáng v.v.. đã tham luận tại hội nghị.

Các đại biểu đều bày tỏ niềm vui trước những thành tựu mới mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm và ngành Hán Nôm đạt được trong những năm vừa qua, nêu nhiều kiến nghị về công tác sưu tầm và nghiên cứu Hán Nôm trong những năm tới. Nhiều tham luận đề nghị khẩn trương sưu tầm rộng rãi các loại hình văn bản Hán Nôm trong dân gian, trong các cơ sở tôn giáo và ở nước ngoài. Trong công tác nghiên cứu cần đặc biệt chú ý khâu giám định văn bản. Đối với những tác phẩm đã công bố cũng cần tiến hành giám định lại về văn bản, về dịch thuật hoặc phiên âm. Nhiều đại biểu lưu ý công tác đào tạo cán bộ, ngành Hán Nôm cần chú ý khai thác lớp chuyên gia Hán Nôm đã có tuổi, đánh giá đúng mức cán bộ trong ngành Hán Nôm và lưu tâm đào tạo lớp cán bộ nghiên cứu Hán Nôm mới. Tạp chí Hán Nôm nên mở rộng mục trao đổi ý kiến bàn về những vấn đề cốt thiết của ngành.

Cuối hội nghị, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Huy Thông, Phó chủ nhiệm, ủy ban KHXH Việt Nam hoan nghênh Viện Nghiên cứu Hán Nôm suy nghĩ tổ chức hội nghị thông báo khoa học này, thể hiện vai trò trung tâm của ngành Hán Nôm mà Viện đảm nhận, hoan nghênh nhiệt tình tham gia xây dựng ngành của các đại biểu dự hội nghị. Giáo sư đề nghị Viện Nghiên cứu Hán Nôm suy nghĩ hơn nữa về chức năng, nhiệm vụ của mình, đẩy mạnh hai khâu sưu tầm và nghiên cứu. Giáo sư góp nhiều gợi ý quý báu trong hướng khai thác nghiên cứu Hán Nôm trong việc đề nghị một ngân sách để tháo gỡ khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ trong việc xây dựng qui chế về nhân bản và in ấn Hán Nôm...